Thứ Ba, 6 tháng 9, 2022

Ông Phil Robrtson chớ phát biểu hồ đồ



Phiên toà phúc thẩm Phạm Đoan Trang, với tội danh “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 88 Bộ luật Hình sự 1999 vừa khép lại. Sẽ chẳng có gì đáng bàn nếu không có chuyện một số trang mạng ở nước ngoài lại tiếp tục đăng phát tin bài bóp méo, xuyên tạc, đánh tráo khái niệm làm sai lệch bản chất vụ án nhằm chống phá Việt Nam. Đáng lưu ý trên BBC, ông Phil Robertson, Phó giám đốc khu vực châu Á của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu rằng: “Phạm Đoan Trang đã trở thành mục tiêu cho sự đàn áp của chính phủ Việt Nam khi lên tiếng chống lại bất công, vạch trần các vi phạm nhân quyền, và hỗ trợ các tù nhân chính trị và gia đình họ. Giới chức Việt Nam nên chấm dứt những hành vi lạm dụng này bằng cách hủy bỏ kết án và ra lệnh trả tự do cho bà.”

Cần phải khẳng định ngay rằng những phát biểu trên là hồ đồ, vô căn cứ, xuyên tạc sự thật và phần nào đã chứng tỏ sự thiếu hiểu biết của ông Phil Robertson về tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam.

Trên bình diện thế giới, chúng ta cần phải thấy trong các văn kiện quan trọng nhất về quyền con người, trong đó có “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị” năm 1966, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là một trong các quyền cơ bản của con người và được quy định rất rõ ràng, cụ thể. Tuy nhiên, cũng theo các văn kiện ấy, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí không phải là tuyệt đối mà là một quyền bị hạn chế. Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 ghi: Theo Khoản 3, Điều 19 “Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này (quy định về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí) kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Theo đó, cũng các quyền cơ bản khác, việc hưởng thụ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí có thể phải chịu một số hạn chế nhất định để tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội (những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật). Điều này cũng có nghĩa khi thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, công dân phải tuân thủ các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ nhà nước và không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người khác.

Trên cơ sở các văn kiện về quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của quốc tế và điều kiện cụ thể của đất nước, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí tại Việt Nam được quy định rất rõ ràng, vừa tương thích với các văn kiện quốc tế, đặc biệt là Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và thực tế Việt Nam. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam được quy định trong Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” (Điều 25). Cùng với đó việc thực hiện các quyền này còn được quy định trong nhiều đạo luật quan trọng như: Luật Báo chí, Luật An ninh mạng…

Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, ở Việt Nam việc thực hiện các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí không phải là vô tổ chức, vô hạn độ mà phải trong khuôn khổ của pháp luật.

Đối tượng Phạm Đoan Trang không còn là xa lạ với nhiều người. Theo cáo trạng của Viện KSND, từ ngày 16/11/2017 – 5/12/2018, bị cáo đã có hành vi làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, bài viết có nội dung nhằm chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phạm Đoan Trang đã nhiều lần trả lời phỏng vấn trên truyền thông nước ngoài với nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước, cũng như “phỉ báng chính quyền nhân dân”. Cụ thể, Phạm Đoan Trang có hành vi tàng trữ các tài liệu như: “Báo cáo tóm tắt về thảm họa môi trường biển Việt Nam”; “Đánh giá chung về tình hình nhân quyền tại Việt Nam”; “Báo cáo đánh giá về luật tôn giáo và tín ngưỡng năm 2016 liên quan đến việc thực hiện quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng ở Việt Nam”. Cơ quan tố tụng xác định, các tài liệu trên có nội dung tuyên truyền “luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân, tuyên truyền thông tin xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quá trình làm việc với cơ quan chức năng ngày 16-11-2017, bị cáo xác nhận mình là tác giả của “Báo cáo – nghiên cứu đánh giá luật tín ngưỡng, tôn giáo”. Phạm Đoan Trang cùng nhóm tác giả viết báo cáo này bằng tiếng Anh, sau đó dịch ra tiếng Việt và đăng tải trên trang điện tử do mình lập nên… Ngoài ra, theo Viện KSND tối cao, Phạm Thị Đoan Trang còn có những phát ngôn tuyên truyền các nội dung thông tin xuyên tạc đường lối chính sách của Nhà nước khi trả lời phỏng vấn một số đài nước ngoài… Hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam của Phạm Thị Đoan Trang là rất rõ, thế nhưng trước tòa bị cáo vẫn cố tình chối tội, kêu oan.

“Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại”, luật pháp Việt Nam rất nghiêm khắc với những ai cố tình vi phạm mà không biết ăn năn, hối lỗi. Nhưng pháp luật Việt Nam cũng bao dung, độ lượng, nhân văn với những ai biết nhận ra lỗi lầm mà ăn năn sám hối. Đằng này với Phạm Thị Đoan Trang – một người có nhận thức, hiểu rõ hành động mình làm nhưng trước các phiên tòa vẫn quanh co chối tội và có thái độ chống đối thì không có căn cứ nào để giảm nhẹ hình phạt. Trên cơ sở xét hỏi công khai tại phiên phúc thẩm, căn cứ lời khai, tài liệu, kết quả giám định, Tòa phúc thẩm nhận định, đủ cơ sở để kết luận hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Thị Đoan Trang.

Việc Tòa phúc thẩm giữ nguyên bản án tuyên án phạt 9 năm tù đối với bị cáo Phạm Thị Đoan Trang về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là đúng người, đúng tội, không oan, hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội. Vụ án được xét xử công khai, hoàn toàn không có gì “mập mờ” hay “tuỳ tiện” như những gì mà ông ông Phil Robertson và một số cá nhân, tổ chức thù địch rêu rao.

Những luận điệu mà ông Phil Robertson và một số cá nhân, tổ chức thù địch với Việt Nam tung ra không nhằm âm mưu gì khác là bóp méo, xuyên tạc bản chất vụ án, cổ súy, kích động cho hành vi vi phạm pháp luật của Phạm Đoan Trang và các đối tượng chống đối khác. Đồng thời, ông Phil Robertson và cái gọi là Tổ chức Theo dõi nhân quyền lấy vụ án này làm cái cớ để vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp những người “bất đồng chính kiến”, những người “hoạt động nhân quyền”, gây sức ép, bôi nhọ uy tín, hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, từ đó can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Nhưng tất cả những luận điệu, chiêu trò đó chỉ là vô vọng bởi pháp luật Việt Nam rất công bằng, rõ ràng, minh bạch. Với quan điểm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, “ai làm người đó chịu”, Việt Nam chỉ xét xử và áp dụng hình phạt với người vi phạm chứ không có chuyện Phạm Thị Đoan Trang “trở thành mục tiêu cho sự đàn áp của chính phủ Việt Nam khi lên tiếng chống lại bất công, vạch trần các vi phạm nhân quyền và hỗ trợ các tù nhân chính trị và gia đình họ…”. Luận điệu kêu gọi “hủy bỏ kết án và ra lệnh trả tự do” cho Phạm Thị Đoan Trang của ông Phil Robertson là việc làm vô lối vi phạm công ước, nguyên tắc quan hệ quốc tế và trái pháp luật Việt Nam. Với tư cách là Phó giám đốc phụ trách Châu Á của Tổ chức Theo dõi nhân quyền chẳng lẽ ông Phil Robertson hiểu rõ điều đó. Hiểu rõ là sai mà vẫn cố làm là hành động vô lối, không thể chấp nhận./.

                                                                                                                             Quốc An

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét