Thứ Năm, 27 tháng 4, 2023

Những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh

 


Việt Dũng

Điệp khúc chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng là điều không có gì mới, nhưng các thế lực thù địch ngày càng có nhiều thủ đoạn tinh vi và nguy hiểm. Xuyên tạc, chủ nghĩa Mác – Lênin, tưởng Hồ Chí Minh, trong đó xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tấn công trực diện vào những vấn đề cốt lõi thuộc nền tảng tư tưởng của Đảng. Chính vì vậy, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng mà chúng ta phải luôn thực hiện nghiêm túc, kiên quyết. Thời gian qua, trên các trang mạng xã hội, các “học giả”, “nhà nghiên cứu”, “trí thức” …, tung ra nhiều bài viết với nhiều nội dung xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo tôi, chúng ta cần nhận diện và đấu tranh phản bác những luận điệu này, nhất là những luận điệu nguy hiểm sau:

Thứ nhất, luận điệu phủ nhận Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh.

Các thế lực thù địch thường xuyên tung ra những luận điệu rằng: Hồ Chí Minh là “nhà hoạt động thực tiễn”, “không phải là nhà tư tưởng”; “Hồ Chí Minh không có tư tưởng gì”. Nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành từ  4 nguồn gốc: thứ nhất, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; thứ hai, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại (phương Đông và phương Tây); thứ ba, từ chủ nghĩa Mác – Lênin; thứ tư, tài năng bẩm sinh và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh không hình thành ngay một lúc mà đã trải qua một quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng phong phú của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển gắn với các thời kỳ hoạt động của Hồ Chí Minh trong phong trào cách mạng Việt Nam và quốc tế vào đầu và giữa thế kỷ XX. Tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện qua hoạt động thực tiễn và qua các bài nói, bài báo và các tác phẩm tiêu biểu của Người, như: “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Đường Cách mệnh”, “Tuyên ngôn độc lập”, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Sửa đổi lối làm việc”, “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” … và bản “Di chúc”. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong sự nghiệp cách mạng của Người. Hệ thống tư tưởng này bao gồm một số nội dung cơ bản: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh toàn dân với sức mạnh thời đại; Sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; Quyền làm chủ của nhân dân; Quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; Phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ di sản lý luận Hồ Chí Minh. Các nhà khoa học, các chuyên gia nghiên cứu về Hồ Chí Minh đã khẳng định Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng thiên tài, nhà lý luận kiệt xuất. Nhiều nhà khoa học, học giả chân chính trên thế giới đều khẳng định “Hồ Chí Minh – nhà tư tưởng” (1) và nhấn mạnh: “Những quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh và khả năng của Người trong việc sử dụng sáng tạo phương pháp lịch sử và duy vật để giải quyết các hiện tượng xã hội là nguồn gốc của những tư tưởng lỗi lạc của Người. Những tư tưởng của Người đã được kiểm nghiệm trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, mở ra những tiềm năng chưa từng có cho các phong trào giải phóng dân tộc” (2). Những luận điệu phủ nhận Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, Hồ Chí Minh chẳng có tư tưởng gì, là hết sức xằng bậy, vô căn cứ của các thế lực thù địch.

Thứ hai, luận điệu cho rằng có tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh đã “lỗi thời”, “lạc hậu”, “không còn phù hợp” với thời đại hiện nay là thời đại của nền kinh tế thị trường, thế giới phẳng, khoa học – công nghệ hiện đại, hội nhập quốc tế …

Chúng ta đều nhận thức sâu sắc rằng: Tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh mang bản chất cách mạng, khoa học và nhân văn nên vẫn giữ nguyên sức sống và giá trị thời đại, không thể “lỗi thời’, “lạc hậu”. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng sự nghiệp đổi mới, ngọn cờ dẫn dắt đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới và phát triển đất nước; về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; về phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội; thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; về quốc phòng, an ninh, đối ngoại … luôn được Đảng ta kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo và giành những thắng lợi lịch sử có ý nghĩa thời đại sâu sắc. Giá trị thời đại trong tư tưởng, đạo đức của Hồ Chí Minh còn được đánh giá cao bởi sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích dân tộc và lợi ích cộng đồng quốc tế, giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, phù hợp với xu thế vận động, phát triển của quan hệ quốc tế hiện nay. Ông Romesh Chandra, trên cương vị Chủ tịch Hội đồng hòa bình thế giới viết: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao (3). Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi và đang được các thế hệ người Việt Nam học tập và làm theo.

Thứ ba, luận điệu cho rằng: Tư tưởng Hồ Chí Minh tách rời với chủ nghĩa Mác – Lênin.

Một số chính trị gia, nhà tài phiệt có tư tưởng cực hữu chính trị, chống cộng, đi đầu trong âm mưu xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, tìm cách luận giải cho rằng chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với cách mạng Việt Nam, còn chủ nghĩa Mác – Lênin là “yếu tố ngoại lai”, “lỗi thời”,” không phù hợp”, thậm chí kết luận rằng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác – Lênin”(?). Những người có ý kiến trên cho rằng, Hồ Chí Minh là một người yêu nước, là người theo chủ nghĩa dân tộc, đặt vấn đề  dân tộc lên trên hết và trước hết, chỉ mong muốn làm thế nào để giải phóng đất nước, giành lại độc lập cho dân tộc. Trong khi đó, Mác – Ăng ghen bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Xuất phát từ yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn cách mạng châu Âu, các nhà lý luận Mác – Lênin tập trung vào giải quyết vấn đề giai cấp. Nên chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết về đấu tranh giai cấp, là hệ tư tưởng chỉ của giai cấp công nhân nên tách rời và đối lập với chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh theo đuổi. Luận điệu sai trái “chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với cách mạng Việt Nam, còn chủ nghĩa Mác – Lênin là “yếu tố ngoại lai”, “lỗi thời”, không phù hợp”; tưởng như thế là đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự khẳng định những đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh với đất nước và dân tộc Việt Nam, nhưng thực chất là âm mưu phủ định cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ định thế giới quan và phương pháp luận khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ đó, phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời luận điệu trên cũng phủ nhận một trong những nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác – Lênin và phủ nhận những ảnh hưởng quan trọng của chủ nghĩa Mác – Lênin trên con đường tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh. Giáo sư người Nhật Shingo Shibata khẳng định Hồ Chí Minh đã góp phần đào sâu và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với các vấn đề dân tộc thuộc địa và “cống hiến nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết lấy vận mệnh của mình” (4). Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” (5). Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường cách mạng từ ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, con đường cách mạng vô sản, thực hiện giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, và giải phóng con người trong một chỉnh thể nhất quán. Sau này, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định vai trò nền tảng tư tưởng, soi đường hết sức quan trọng của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với cách mạng Việt Nam: : “Chủ nghĩa Mác – Lênin làm gốc”(6); “Chủ nghĩa Mác – Lênin là chủ nghĩa cách mạng và khoa học nhất” (7); “Chủ nghĩa Mác – Lênin không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”. Luận điệu tư tưởng Hồ Chí Minh tách rời thậm chí đối lập với chủ nghĩa Mác – Lênin là sự xuyên tạc về mối quan hệ gắn bó mật thiết, hữu cơ, tính thống nhất không thể tách rời giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời cũng nhằm dụng ý xấu xa rằng nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam dựa trên hai yếu tố tách rời thậm chí đối lập nhau thì tất cả những gì xây dựng trên nền tảng ấy sẽ sụp đổ. Từ đó, làm nghi ngờ, hoang mang, dao động, gây chia rẽ, mâu thuẫn trong nhận thức về nền tảng tư tưởng của Đảng. Còn vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, Hồ Chí Minh luôn đặt vấn đề dân tộc lên trên hết và trước hết. Đây chính là sự vận dụng và phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh đối với chủ nghĩa Mác – Lênin – phương pháp luận duy vật biện chứng vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam, mà tuyệt đối không phải là nguyên do của sự tách rời hay đối lập giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ tư, các thế lực thù địch cho rẳng, Hồ Chí Minh có tư tưởng về giải phóng dân tộc, nhưng không có tư tưởng về chủ nghĩa xã hội.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ di sản lý luận Hồ Chí Minh. Đây cũng là cống hiến lớn của Hồ Chí Minh cho cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh là một trong số ít các tác giả trong lịch sử có được một công trình đồ sộ nghiên cứu về chủ nghĩa thực dân. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh giành sự quan tâm đặc biệt đến cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân ở thuộc địa, giải quyết mâu thuẫn dân tộc, làm cách mạng dân tộc giải phóng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, để giành độc lập cho dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, trong hoàn cảnh một nước thuộc địa thì trước hết phải giành cho được độc lập dân tộc. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không được tự do, hạnh phúc, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Muốn có độc lập, tự do thực sự thì phải xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, bao gồm: Chủ nghĩa xã hội là một chế độ nhân dân làm chủ. Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên  lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức. Con người không bị áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển mọi khả năng của mình; Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý. Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó bao trùm lớn nhất là đặc điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Và Hồ Chí Minh xác định rõ: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”. Về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ chí Minh khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm cả chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, và xây dựng con người. Về  động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh chỉ rõ quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động, nòng cốt là Công – Nông – Trí. Coi trọng động lực kinh tế; quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần. Kết hợp nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nội lực là quyết định nhất, ngoại lực là rất quan trọng.

Tấn công trực diện vào tư tưởng Hồ Chí Minh và những vấn đề cốt lõi của nền tảng tư tưởng của Đảng là âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch. Bằng cách này, bọn chúng muốn loại bỏ tư tưởng Hồ Chí minh và nền tảng tư tưởng của Đảng ra khỏi đời sống tinh thần xã hội ta, để thực hiện mưu đồ thiết lập hệ tư tưởng tư sản và chủ nghĩa tư bản trên đất nước Việt Nam. Âm mưu, thủ đoạn của bọn chúng dù thâm độc, nham hiểm nhưng luôn thất bại vì tư tưởng Hồ Chí Minh là một học thuyết cách mạng vô giá của dân tộc Việt Nam là ngọn cờ chiến đấu và chiến thắng của dân tộc Việt Nam. Đấu tranh bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng mà chúng ta phải luôn thực hiện nghiêm túc, kiên quyết, kịp thời để tư tưởng Hồ Chí Minh – học thuyết cách mạng vô giá của dân tộc luôn tỏa sáng trên suốt chặng đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở đất nước ta.

                           ……………………………………………….

(1).  Bu –rốp: “Hồ chí Minh – nhà tư tưởng”, in trong sách Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr 277);

(2).  Tê- shoom Kê-bê -đe, in trong sách Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr 88).

(3).  Báo Nhân dân, ngày 21/5/1980.

(4).  Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân thế giới, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, tr 96.

 (5).  Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia sự thật, t2, tr289

(6).  Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia sự thật, t6, tr 359

(7).  Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia sự thật t7, tr 414

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét