GS,TS Đàm Đức Vượng
Cách
đây không lâu, trên mạng đăng lại bài viết dài về Cách mạng Tháng Tám năm 1945
của Việt Nam của một người khác chính kiến. Bài viết xuyên tạc lịch sử của Cách
mạng Tháng Tám, cho rằng, Cách mạng Tháng Tám là một thảm kịch: “Những nhân chứng
của Cách mạng Tháng Tám đều nhớ rằng cuộc cách mạng ấy đã khởi đầu với những
phát súng lục vừa động viên vừa uy hiếp tinh thần quần chúng. Chi tiết này tuy
nhỏ mà quan trọng. Đó là thảm kịch của Cách mạng Tháng Tám, bởi vì, bạo lực đã
là tinh thần chỉ đạo của nó cũng như của mọi chính sách của Đảng Cộng Sản Việt
Nam sau này và ngay cho tới bây giờ. Bạo lục này đã tàn sát hàng trăm ngàn người
yêu nước thực sự, những đứa con quả cảm nhất của Tổ quốc đáng lẽ phải được tôn
vinh, nhưng đã bị giết chỉ vì không tán thành chủ nghĩa cộng sản”. Bài viết ngụy
biện: “Tôi phân tích và trình bày sức mạnh áp đảo của cộng sản vào giai đoạn trước
và sau Cách mạng Tháng Tám, không phải để tâng bốc họ mà để thấy rõ tội ác của
họ. Với một sức mạnh và một khí thế vượt trội và hơn hẳn như thế, thực ra Việt
Minh không cần gì phải tàn sát những người không cộng sản cả. Không ai làm gì được
họ hết. Họ vẫn có thể lãnh đạo cuộc kháng chiến giành độc lập, và có lẽ còn
thành công mau chóng và dễ dàng hơn nhiều, nếu không tàn sát những người quốc gia.
Nhưng họ vẫn tàn sát, như họ đã tàn sát hàng vạn người trong cải cách ruộng đất,
như họ đã hạ nhục tập thể và bỏ tù hàng loạt quân nhân và công chức miền Nam
sau này, bởi vì mục tiêu của họ không phải chỉ là giành độc lập, mà là giành độc
lập để thiết lập chủ nghĩa cộng sản. Họ đã tàn sát bởi vì tình dân tộc, nghĩa đồng
bào của họ, nếu có, cũng không có một trọng lượng nào so với chủ nghĩa Mác –
Lênin mà họ tôn thờ. Có thể là người cộng sản cũng yêu nước, nhưng họ không phải
chỉ yêu nước mà còn yêu chủ nghĩa, và họ yêu chủ nghĩa hơn yêu nước và trước
khi yêu nước”…
Đó
là những giọng điệu lừa bịp, trắng trợn xuyên tạc lịch sử, cần phải phê phán và
bác bỏ.
Cách
mạng tháng Tám được bắt đầu từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, tháng 5-1941,
do Nguyễn Ái Quốc, thay mặt Quốc tế Cộng sản, chủ trì, chủ trương Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền trong cả nước về tay nhân dân. Tổng Bí thư Trường Chinh viết:
“Cách mạng Tháng Tám đã nêu cao tinh thần quật khởi của dân tộc Việt Nam, một
dân tộc có truyền thống lâu đời chiến đấu vì độc lập, tự do, quyết không chịu
làm nô lệ. Cách mạng tháng Tám là kết quả của tám mươi năm đấu tranh không ngừng
của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp. Nó cũng là một sự kiện lịch sử vĩ đại
nhất của nước ta từ khi Quang Trung đánh đuổi quân xâm lược Mãn Thanh (1789) đến
nay… và cụ Hồ Chí Minh, vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, người lãnh đạo Cách mạng tháng Tám, rất xứng đáng là anh hùng dân tộc của
nước ta”1.
Cách
mạng Tháng Tám thể hiện tinh thần yêu nước chân chính của nhân dân ta trong
công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, kết hợp nhuần nhuyễn giữa
chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa yêu nước chân chính của nhân dân ta, chứ
không phải chỉ có yêu chủ nghĩa xã hội mà không có chủ nghĩa yêu nước thuần túy
như bài của một người khác chính kiến đã viết.
Cách
mạng Tháng Tám được toàn thể nhân dân, trong đó có những nhân sĩ, trí thức, những
tổ chức tiến bộ ủng hộ và trực tiếp tham gia, chứ không phải là tàn sát những
người quốc gia, cũng không phải như một thảm kịch, như bài của một người khác
chính kiến đã viết.
Cách
mạng Tháng Tám diễn ra trong bối cảnh Nhật đã chiếm Đông Dương, đưa nhân dân Đông
Dương vào cảnh “một cổ hai tròng” (Pháp và Nhật). Đến khi Nhật hất cẳng Pháp,
thì Đảng Cộng sản Đông Dương xem đó là thời cơ khởi nghĩa: “Nhật – Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta”.
Để
tiến đến Cách mạng Tháng Tám, Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc ngày
14-8-1945, tại xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Hội nghị nhận định
tình hình thế giới, tình hình Đông Dương và cho rằng, “những điều kiện khởi nghĩa
ở Đông Dương như đã chín muồi”2, “cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”3. Muốn vậy, phải mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân,
tạo thành sức mạnh vô địch chống phátxít và thực dân xâm lược, giành độc lập
cho dân tộc.
Tình
hình diễn ra rất nhanh. Ngày 13-8-1945, Trung ương nhận được tin Nhật đầu hàng Đồng
minh, Tổng bộ Việt Minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị phải thành lập ngay Ủy
ban khởi nghĩa toàn quốc do Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp phụ trách để
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của toàn dân. Trong Quân lệnh số 1, Ủy ban khởi nghĩa
nêu rõ đây là thời cơ nghìn năm có một để nhân dân Việt Nam vùng dậy giành quyền
độc lập cho nước nhà.
Tiếp
sau Hội nghị toàn quốc của Đảng là Đại hội đại biểu quốc dân họp trong 2 ngày,
16,17-8-1945, tại xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Chủ tịch Hồ
Chí Minh điều khiển Chương trình Đại hội trong ngày đầu. Thay mặt Trung ương Đảng,
Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày chủ trương của Đảng trước tình hình nóng bỏng
của đất nước. Đảng lãnh đạo nhân dân nổi dậy tước vũ khí trước khi quân Đồng
minh vào Đông Dương, giành chính quyền từ tay Nhật, lật đổ bọn bù nhìn tay sai
của Nhật, đứng ở tư thế cầm quyền mà tiếp đón quân Đồng minh vào giải giáp quân
Nhật ở Đông Dương. Đại hội thảo luận và thông qua Nghị quyết, nhấn mạnh việc
giành chính quyền toàn quốc và thi hành 10 chính sách lớn của Việt Minh, trong đó
có vấn đề nhân quyền, tài quyền (quyền sở hữu tài sản), quyền phổ thông đầu phiếu,
quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, dân tộc bình quyền, nam
nữ bình đẳng. Đại hội cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng do Bác Hồ làm Chủ tịch. Đại
hội quốc dân thắng lợi, thể hiện sự đoàn kết nhất trí của toàn dân trong giờ
phút quyết định vận mệnh của đất nước, biểu thị lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết tâm khởi nghĩa thắng lợi.
Khi Đại
hội quốc dân vừa bế mạc, cũng là lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo xong “Thư
kêu gọi tổng khởi nghĩa”. Trong thư, Người kêu gọi đồng bào đoàn kết, phấn đấu:
“Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy
đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”4.
Sau
khi Hà Nội được giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về Hà Nội, ở số nhà 48, phố
Hàng Ngang. Tại đây, Người đã soạn thảo “Tuyên ngôn độc lập”. Sau khi thảo xong
Tuyên ngôn độc lập, Người quyết định tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại vườn hoa
Ba Đình lịch sử vào ngày 2-9-1945. Tại cuộc mít tinh, Người đã đọc Tuyên ngôn độc
lập, tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập,
và sự thực đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem
tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc
lập ấy”5.
Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Nhà
nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
Những
ưu điểm cơ bản của Cách mạng Tháng Tám là có sự chuẩn bị chu đáo, đặc biệt là
chuẩn bị về đường lối, nghệ thuật xác định kẻ thù chính cần đánh đổ, sự chuẩn bị
về tổ chức đều chính xác; chọn thời cơ để khởi nghĩa cũng rất chính xác, nổ ra đúng
lúc phải nổ. Toàn dân đoàn kết, quần chúng nổi dậy theo kế hoạch của Đảng Cộng
sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh, là một trong những điểm nổi bật của Cách
mạng Tháng Tám mà Tổng Bí thư Trường Chinh đã tổng kết.
Cách
mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Quy luật của Cách mạng
Tháng Tám là từ nông thôn về thành thị, lấy nông thôn làm căn cứ địa, nhưng
thành thị cũng đóng vai trò quan trọng.
Cách
mạng Tháng Tám hoàn toàn không có chuyện Việt Minh tàn sát những người không cộng
sản như bài của người khác chính kiến đã viết; trái lại, chủ trương của Việt
Minh là đoàn kết toàn dân, không phân biệt giai cấp, đảng phái, giàu nghèo, dân
tộc, tôn giáo,… miễn là người đó có lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần dân tộc
đấu tranh để giành lại nước.
Đó
là thực chất của Cách mạng Tháng Tám.
Mọi
luận điệu xuyên tạc về Cách mạng Tháng Tám chắc chắn sẽ bị dư luận xã hội lên
án.
——
1.
Trường Chinh: Cách mạng Tháng Tám, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1946.
2. Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2000, tập 7, tr. 424.
3. Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2000, tập 7, tr. 425.
4. Hồ
Chí Minh: Toàn tập, 15 tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, tập 3, tr. 596.
5. Hồ
Chí Minh: Toàn tập, 15 tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, tập 4, tr. 3.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét