Thứ Sáu, 29 tháng 12, 2023

RFA cố tình xuyên tạc sự thật về nhân quyền ở Việt Nam

            Ngày 22/12, Đài Á Châu Tự Do (RFA), đăng bài: “Nhân quyền Việt Nam 2023: tiếp tục tồi tệ từ năm 2018!”, bài viết rêu rao: “Tồi tệ, ảm đạm, hung hãn… là những tính từ mà một số nhà hoạt động dùng để mô tả khái quát tình hình nhân quyền ở Việt Nam trong năm 2023”. Đây là luận điệu mang tính quy chụp của RFA, cố tình xuyên tạc sự thật về thành tựu thúc đẩy và bảo đảm nhân quyền của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong năm 2023 và những năm gần đây.


Cần khẳng định rằng: bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là chính sách nhất quán của Việt Nam. Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước; là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội; thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam đều phấn đấu cho mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, tất cả vì con người và cho con người; nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.

Tham gia vào các công ước quốc tế về quyền con người là một chủ trương thường xuyên và nhất quán của Việt Nam, thể hiện cam kết cũng như quyết tâm của Việt Nam trong việc bảo đảm và thực hiện các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền con người. Từ năm 1977, sau khi trở thành thành viên của Liên hợp quốc, Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia hầu hết vào các công ước quốc tế về quyền con người. Đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong đó có 7/8 công ước cơ bản. Trong khu vực và các nước phát triển, Việt Nam là một trong những nước dẫn đầu về số lượng là thành viên các công ước quốc tế về quyền con người. Đi đôi với việc chủ động, tích cực tham gia các công ước quốc tế về quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã nỗ lực xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia, bảo đảm sự hài hòa giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế.

Cùng với những nỗ lực trong xây dựng và hoàn thiện thể chế về quyền con người, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu trong bảo đảm quyền con người trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các quyền con người về dân sự, chính trị ở Việt Nam được bảo đảm một cách tích cực, chủ động. Quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý nhà nước và xã hội của người dân được bảo đảm. Việt Nam tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin; quyền tự do hội họp và lập hội; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền bình đẳng của các dân tộc; quyền sống, được tôn trọng về nhân phẩm và bất khả xâm phạm về thân thể; quyền tự do đi lại và cư trú,… của người dân. Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cũng được thực hiện một cách tích cực. Các chương trình, mục tiêu, chính sách quốc gia, như: bảo đảm quyền thoát nghèo; quyền về việc làm, thu nhập; quyền sở hữu; an sinh xã hội, quyền được chăm sóc y tế, sức khỏe; quyền được học tập, giáo dục; quyền tham gia vào đời sống văn hóa,… đều hướng đến người dân. Mới đây, đúng vào Ngày Quốc tế hạnh phúc (20/3/2023), Mạng lưới giải pháp phát triển bền vững của Liên hợp quốc công bố Báo cáo Hạnh phúc toàn cầu lần thứ 10 về mức độ hạnh phúc của hơn 150 quốc gia, vùng lãnh thổ (dựa trên đánh giá trung bình từ năm 2020 đến năm 2022), Việt Nam đứng thứ 65/150, tăng 12 bậc so với năm 2020. Đánh giá trên cho thấy, chỉ số hạnh phúc của người dân Việt Nam những năm gần đây được nâng lên đáng kể. Năm 2022, tạp chí kinh doanh, thương mại hàng đầu thế giới CEOWORLD (Mỹ) công bố báo cáo xếp hạng chỉ số “chất lượng sống” của 165 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, thì chỉ số “chất lượng sống” của Việt Nam đạt 78,49 điểm, xếp vị trí 62/165 (tăng 39 bậc so với năm 2021). 

Những thành tựu về đảm bảo quyền con người của Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Không phải ngẫu nhiên mà Việt Nam trúng cử với số phiếu cao trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025. Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres đã đánh giá: “Việt Nam là một đối tác quan trọng của Liên hợp quốc, đã có nhiều đóng góp thực chất và hiệu quả vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Mối quan hệ tốt đẹp này cần được tăng cường hơn nữa trong thời gian tới để thúc đẩy hòa bình, sự phát triển bền vững và quyền con người trên thế giới”.

Kết quả đó được nhân dân ta và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao; Việt Nam có quyền tự hào về những kết quả đã đạt được trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Thế nhưng, RFA vẫn cố tình tìm mọi cách bóp méo, xuyên tạc sự thật về nhân quyền Việt Nam. Luận điệu này cần phải kiên quyết đấu tranh, bác bỏ./.

Thứ Ba, 26 tháng 12, 2023

Vạch trần chiêu trò hạ thấp vai trò của Quân đội

           Những ngày này, toàn quân và nhân dân cả nước phấn khởi, long trọng tổ chức các hoạt động kỷ niệm 79 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2023) và 34 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2023), thì trên các nền tảng mạng xã hội, các thế lực xấu vẫn tìm mọi cách nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò của Quân đội. Ngày 21/12, trang facebook Chân Trời Mới Media đăng bài viết: “Dân Việt Nam bây giờ có ai là quân thù?”; trong đó họ cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là cái vòng kim cô úp lên đầu Quân đội, khống chế Quân đội nên giặc chiếm hết Biển Đông mà vẫn một mực anh em, láng giềng tốt với Trung cộng. Rồi họ suy diễn: có Đảng lãnh đạo nên Quân đội giờ mới ra như thế! Vậy thực chất của chiêu trò này là gì? Hãy cùng Tre Việt làm rõ.

Lịch sử minh chứng, cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy: cùng với sự ra đời của nhà nước thì bất kỳ giai cấp, đảng phái nào nắm quyền lãnh đạo đất nước đều tổ chức ra quân đội để bảo vệ quyền lợi chính trị, kinh tế của giai cấp, đảng phái mình và bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ quốc gia. Vì thế, quân đội là hiện tượng xã hội có tính lịch sử, là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp, mang bản chất giai cấp sâu sắc; do đó, không có quân đội phi giai cấp, siêu giai cấp, trung lập, đứng ngoài chính trị. Mỗi quốc gia đều đặt dưới sự lãnh đạo, điều hành của một hoặc liên minh nhiều đảng và quân đội của quốc gia đó luôn phải phục tùng sự lãnh đạo của đảng chính trị cầm quyền. Mọi hoạt động về chính trị, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, tư tưởng hay đường lối, nguyên tắc tổ chức xây dựng quân đội cũng đều do giai cấp, nhà nước sinh ra nó quyết định, chi phối.

 Ở Việt Nam, sự ra đời của Quân đội cũng không nằm ngoài xu thế chung của nhân loại. Quân đội nhân dân Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo, chăm lo giáo dục, rèn luyện. Và, thực tiễn đã khẳng định: Quân đội nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam là nguyên nhân cơ bản nhất để trong suốt 79 năm qua, Quân đội cùng với toàn Đảng, toàn dân đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, bảo vệ đời sống ấm no, tự do và hạnh phúc của nhân dân; luôn xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Tổ quốc và Nhân dân giao phó. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã xác định rõ quan điểm về đối tác, đối tượng của cách mạng Việt Nam. Theo đó: “những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác” và “bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”. Do đó, mọi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam luôn quán triệt, thấm nhuần sâu sắc quan điểm của Đảng để có nhận thức, hành động đúng đắn, bảo vệ vững chắc toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ của Tổ quốc.

Hơn nữa, thực tiễn trên thế giới đã có những bài học về sự buông lỏng, xem nhẹ sự lãnh đạo của đảng cầm quyền đối với quân đội và phải trả giá đối với sự tồn vong của chế độ, đất nước. Điển hình là bài học về sự sụp đổ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu những năm cuối của thập niên 80, đầu 90 của thế kỷ XX đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

 Vì vậy, việc trang facebook Chân Trời Mới Media cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là cái vòng kim cô úp lên đầu Quân đội, khống chế Quân đội,… nên Quân đội giờ mới ra như thế!” là hết sức phi lý, suy diễn vô căn cứ, hạ thấp uy tín, vai trò của Đảng, Quân đội. Thực chất của chiêu trò này rất nguy hiểm, bởi nó kích động, tiến tới đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, thực hiện “phi chính trị hóa” Quân đội. Âm mưu thâm độc này cần bị vạch trần, lên án, đấu tranh bác bỏ./.

Thứ Hai, 25 tháng 12, 2023

Đối ngoại vì hòa bình, “cái tình” và “cái lý”



1. Hóa giải những mâu thuẫn, bất đồng, quy tụ nhân tâm, kết hợp chặt chẽ các yếu tố thời đại với các nhân tố dân tộc, lý và tình, sống có trước có sau, nhân nghĩa vẹn toàn; tạo nên sức mạnh nội thân vô địch, nhờ đó mà góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy, là một trong những thành công đặc sắc nhất, độc đáo nhất của tư duy lý luận về quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta; là kết quả của tư duy mới về ngoại giao cây tre Việt Nam. Nó không tự nhiên đến, chẳng tự nhiên đi; không phải mong muốn là có ngay được mà phải trải qua quá trình kiến tạo, kết tinh, hội tụ, cô đọng lại những giá trị tinh túy nhất từ kinh nghiệm hàng nghìn năm đánh giặc giữ nước của dân tộc ta; được hun đúc, trao truyền cho thế hệ con cháu ngày nay. Cho nên, nó sống động, sâu sắc, đã, đang bện chặt, quấn quýt vào nhau, phát huy tốt tác dụng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Không phải ngẫu nhiên Đảng, Nhà nước ta có được tư duy mới về đối ngoại, về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy. Nó được chắt lọc từ chính thực tiễn hơn 30 năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; sự trả giá của những thăng trầm lịch sử; là kết quả của quá trình vận động, phát triển chín muồi của các yếu tố khách quan – nhân tố chủ quan, của “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, của sự nhìn nhận ra đúng bản chất và mưu đồ thôn tính, chống phá, cướp đi thành quả cách mạng mà Nhân dân ta bằng máu xương xây đắp nên.

Nó đã và đang hối thúc, đòi hỏi Đảng ta phải làm những gì, làm như thế nào để đất nước bình an, không có xung đột, không phải đổ máu, hy sinh; nhân dân có môi trường hòa bình, ổn định để an tâm sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế – xã hội. Bây giờ và sau này đều phải làm như vậy, bằng mọi cách phải giữ được thành quả cách mạng; giữ vững giá trị của công cuộc đổi mới; tuyệt đối phải chủ động ngăn ngừa âm mưu, sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động; không để xảy ra bất đồng, mâu thuẫn, xung đột, chiến tranh. Vì vậy, sự ra đời của đường lối ngoại giao cây tre Việt Nam gắn liền với mạch nguồn, sức sống, sự đòi hỏi bức thiết của công cuộc đổi mới đất nước, sự cần thiết phải bảo vệ trong dựng xây; được thể hiện sinh động qua thực tiễn kiến tạo và phát triển đối ngoại vì hòa bình với những dấu ấn nổi bật.

Qua thực tiễn 10 năm đầu của công cuộc đổi mới 1986 – 1995, chúng ta đã phải đối mặt với sự chống phá quyết liệt của thù trong, giặc ngoài, nhất là bọn FULRO, với những thành bại trong thực hiện chính sách đối ngoại, Đảng ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc về an dân, phòng thủ; từng bước định hình tư duy về đường lối đổi mới và từng bước khai mở, thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, với các nước lớn để đất nước ta có hòa bình; xóa bỏ bao vây, cấm vận, bị phong tỏa, kìm hãm sự phát triển.

2. Dấu mốc quan trọng nhất khẳng định quyết tâm chính trị to lớn của Đảng ta là năm 1986, Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó xác định đổi mới tư duy về đối ngoại có ý nghĩa rất quan trọng. Sự khởi phát của tư duy mới về đối ngoại, quốc phòng, an ninh được thể hiện ở chủ trương của Đảng ta: chuyển từ “đối đầu” sang “đối thoại”, “thêm bạn, bớt thù”, giải quyết những vấn đề tồn tại bằng biện pháp hòa bình, đặc biệt chú ý đối với các nước láng giềng như Trung Quốc, ASEAN; từng bước nhận ra đối tác, đối tượng và bản chất của từng loại; vững tin phá thế bao vây, cấm vận, phong tỏa; cải thiện quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các tổ chức quốc tế; đẩy các thế lực chống phá, thù địch ra xa Tổ quốc.

Đại hội VI (12-1986) của Đảng ta nhấn mạnh chủ trương: “thêm bạn, bớt thù”, thực hiện “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển”. Đến Đại hội VII (6-1991), Đảng ta đề ra chính sách “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại”, đưa phương châm “thêm bạn, bớt thù” lên mức độ cao hơn, bởi vì: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Với phương châm này, Đảng ta chủ trương “khép lại quá khứ, hướng đến tương lai”. Tình thế buộc chúng ta phải làm như vậy, nhưng chúng ta không “đóng lại quá khứ”, chỉ tạm gác lại nó để đi tiếp vì cuộc sống mưu sinh của hàng chục triệu người dân, vì hòa bình.

Việc định hình và phát triển tư duy này thể hiện rõ ở Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (6-1992), Đảng ta đề ra 4 phương châm xử lý các hoạt động đối ngoại mang đầy tính nhân văn: (1) Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; (2) Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; (3) Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; (4) Tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước. Chúng ta cần phát triển, chúng ta nhất thiết phải có hòa bình, hợp tác, chúng ta phải đổi mới; phải vừa hợp tác, vừa đấu tranh.

Từ năm 1996 đến 2005, Đảng ta xác định đối ngoại là phương thức rất quan trọng để hội nhập khu vực và thế giới. Từ định hướng coi Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại, Đảng ta từng bước chuyển sang đa dạng hóa, đa phương hóa. Từ phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” đề ra từ Đại hội VII đã được Đại hội IX, Đảng ta đã nâng lên một mức độ cao hơn: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”. Đây là bước đổi mới rất quan trọng về tư duy đối ngoại của Đảng; là cơ sở khoa học để tháng 11-1996, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về việc mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác kinh tế đối ngoại 5 năm 1996-2000.

Đến Hội nghị Trung ương 4 khóa VIII (12-1997), Đảng ta chủ trương: “nâng cao ý chí tự lực, tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế”. Ngày 27-11-2001, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 07 về Hội nhập kinh tế quốc tế, xác định hội nhập kinh tế quốc tế vừa là mục tiêu, vừa là một nhiệm vụ thường xuyên của đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn mới.

Từ năm 2006 đến 2016, Đảng ta đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Đại hội X đặt ra rất cao nhiệm vụ: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác…, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”. Như vậy, đến Đại hội X, tư duy về hội nhập quốc tế không còn giới hạn trên lĩnh vực kinh tế mà mở rộng sang các lĩnh vực khác: Chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội…; ở mọi cấp độ: song phương, khu vực và đa phương.

Đến Đại hội XI (1-2011), Đảng ta lần đầu tiên đưa ra mục tiêu đối ngoại “Vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Sau đó, Đảng đã bổ sung nội hàm mới và hoàn chỉnh phương châm; “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” (Văn kiện Đại hội XI, tr. 83-84). Trong Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10-4-2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Đảng ta đã đưa tiến trình hội nhập quốc tế sang giai đoạn mới, toàn diện và bao trùm: Kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo… Đối ngoại đa phương được xác định từ “tham gia” sang “chủ động đóng góp, dẫn dắt, định hình”, tùy theo khả năng và điều kiện cụ thể. Như vậy, từ Đại hội XI của Đảng, đường lối đối ngoại đã phát triển lên đỉnh cao mới, đưa ra chủ trương hội nhập toàn diện vào tất cả các lĩnh vực của cộng đồng quốc tế.

Từ năm 2016 đến nay, Đảng ta đã bổ sung, phát triển tư duy mới trên hai khía cạnh: (1) Sâu sắc hơn về mục tiêu, phương châm, vị trí, vai trò của đối ngoại; (2) Định hướng triển khai một số lĩnh vực cụ thể. Về mục tiêu, tại Đại hội XIII, Đảng ta chuyển nhận thức từ “Vì lợi ích quốc gia, dân tộc” sang thành mục tiêu: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi” (Văn kiện Đại hội XIII, Tập I, tr. 161-162).

Như vậy, thống nhất với Đại hội XII, Đại hội XIII, Đảng ta đã xác định: đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trước hết và trên hết. Đây là sự tổng kết sâu sắc, thể hiện sự phát triển tư duy, nhận thức lý luận rất mới của Đảng ta. Về phương châm thực hiện nhiệm vụ: Đảng ta chỉ rõ “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”. Về vị trí, vai trò của đối ngoại, Đảng ta chỉ rõ “Phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước” (Văn kiện Đại hội XIII, Tập I, tr. 162).

3. Trên một số lĩnh vực cụ thể, Đảng ta xác định “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”, hội nhập quốc tế trên tất cả các kênh: Đảng, Nhà nước và nhân dân; song phương và đa phương, ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực; thực hiện hiệu quả các cam kết sâu rộng của các FTA thế hệ mới.

Về ngoại giao đa phương, Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 8-8-2021 của Ban Bí thư về việc đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030. Đảng ta xác định kết hợp chặt chẽ 3 trụ cột: đối ngoại đảng – ngoại giao nhà nước – đối ngoại nhân dân. Ba trụ cột này đặt trong một chỉnh thể thống nhất, vừa có tính độc lập tương đối, vừa hỗ trợ lẫn nhau, vì mục tiêu chung là lợi ích quốc gia – dân tộc.

Nhờ đó, đối ngoại Việt Nam với biểu tượng cây tre được hình thành; từng bước bện chặt với quốc phòng, an ninh, góp phần tạo lập và duy trì, củng cố môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ chế độ XHCN; phá vỡ thế cô lập, bao vây, cấm vận, đẩy lùi các thế lực thù địch, chống cộng nhờ “tuyệt chiêu”: không ngừng mở rộng quan hệ đối ngoại, đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu, thêm bạn, bớt thù.

Trong đó, đối ngoại quốc phòng, an ninh đã và đang góp phần rất quan trọng trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; duy trì đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh phi truyền thống; xử lý thỏa đáng vấn đề dân chủ, nhân quyền, buôn lậu qua biên giới và an ninh mạng. Chúng ta đã và đang tranh thủ được môi trường bên ngoài thuận lợi để phát triển đất nước; đã và đang đẩy ra xa ngoài biên giới Tổ quốc các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Qua đó, không ngừng nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; giữ cho trong ấm, ngoài êm; góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Vì lẽ đó, cần hiểu cho đúng và sâu sắc quan điểm: Muốn chống cái sai phải cần hai cái đúng: Đó là thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời, nắm vững chắc bản chất tư duy mới về đối ngoại của Đảng ta, nhất là đường lối ngoại giao cây tre Việt Nam, chính sách quốc phòng “bốn không” và “bốn tránh”. Đây là cơ sở lý luận, thực tiễn vững chắc nhất để chúng ta đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng; tính đúng đắn của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; góp phần đưa đất nước vững tin bước vào năm 2024 với niềm tin tất thắng, lập thành tích cao nhất chào mừng ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, chào Xuân Giáp Thìn hạnh phúc./.






Chủ Nhật, 24 tháng 12, 2023

Trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”


Tâm Bình

Gần đây, trên các tờ báo, các trang mạng xã hội, có nhiều báo, bài viết với nhiều thông tin và bình luận trái ngược nhau, liên quan đến trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Đáng chú ý, trên một số trang mạng nước ngoài có nhiều bài báo bình luận với ý đồ xấu, cố tình bôi nhọ, xuyên tạc về chủ trương, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta. Mặc dù chuyến thăm cấp Nhà nước của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình cùng Phu nhân tới Việt Nam từ ngày 12 đến 13/12/2023 đã thành công tốt đẹp, với các hoạt động phong phú, mang nhiều ý nghĩa, diễn ra sôi động và dày đặc…; tuy nhiên, vin cớ một số hoạt động diễn ra trong chuyến thăm, các phần tử có tư tưởng chống đối, thù địch và phản động, đã cố tình soi xét, “bới lông, tìm vết”, nhằm “bắt lỗi” những sơ xuất hoặc sai sót (nếu có) trong các hoạt động của chuyến thăm. Từ hoạt động ngoại giao “tiệc trà” diễn ra trong khung cảnh, bố cục trang trí hai cây tre chung một gốc, uốn lượn cân bằng, đối xứng hai bên, họ xuyên tạc đủ điều, thậm chí suy diễn theo lối phi lô gic, quy chụp vô căn cứ về chủ trương, đường lối và hình tượng của trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”.




Trên các nền tảng trang mạng xã hội, nhất là ở ngoài nước, như Thoibao.de, BBC News Tiếng Việt, VOA… đã lớn tiếng, vu cáo, xuyên tạc xiên xẹo về trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Thoibao.de trích dẫn từ BBC News Tiếng Việt, rằng “Từ Hoa Kỳ, Giáo sư Alexander L.Vuving cho rằng: Trong thời kỳ cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn trở nên ghê gớm, thì cây tre không phải là giải pháp hữu hiệu. Gió to, gió lớn thế này thì tre sẽ bật gốc. Nói một cách hình tượng là cây tre Việt Nam hoàn toàn có thể bị con gấu Trúc của Trung Quốc gặm nhấm dần dần. Bởi vì, chính sách “ngoại giao cây tre” của Việt Nam chỉ có thể phát huy sức mạnh trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh. Chúng ta đang bước vào thời kỳ mới hậu hậu chiến tranh lạnh, mà tạm gọi là tranh chấp Đông Tây mới, với Mỹ và phương Tây ở một bên, và Nga, Trung Quốc ở bên kia” (?!).

Hoặc chúng cố tình bác bỏ sự thật, xuyên tạc bản chất mối quan hệ song phương “đối tác chiến lược toàn diện” giữa Việt Nam với một số nước như Trung Quốc, Mỹ, Nhật… , rằng “Trong khi Việt Nam ra sức cân bằng mối quan hệ với các cường quốc, thì đã bị Trung Quốc chớp thời cơ. Lý do khiến Việt Nam quyết định chấp nhận bài thuốc Bắc này, do Việt Nam muốn cân bằng trong đường lối đối ngoại với các nước lớn, sau khi họ nâng cấp hai bậc quan hệ với Mỹ, với Nhật, đã ngả sang phía Mỹ, Nhật rồi, thì nên ngả ra một tý cho Trung Quốc cân bằng. Do đó Trung Quốc đã chớp được thời cơ này và ép Việt Nam nâng cấp quan hệ từ “Đối tác chiến lược toàn diện” lên “Cộng đồng chia sẻ tương lai” chung vận mệnh này. Nhượng bộ nằm ở chỗ Việt Nam không được gì ở cộng đồng này, cái lợi thì rất nhỏ, mà rủi ro thì rất lớn…” (?!). Và “rõ ràng Bắc Kinh đã không hài lòng trước việc Việt Nam có những bước nâng cấp quan hệ ngoại giao với Mỹ, Nhật và Úc…”(?!).

Như chúng ta đã biết, cây tre có ở nhiều nơi trên thế giới, hình tượng cây tre cũng xuất hiện trong văn hóa của nhiều quốc gia khác. Có điều, mỗi quốc gia, dân tộc đều có bản sắc, bản chất riêng, gắn bó với cây tre. Cây tre ở Việt Nam, chịu nắng, uống sương của đất trời Việt Nam, do đó, tre mang trong mình cốt cách, khí chất riêng của người Việt Nam. Trong lịch sử, văn hóa Việt Nam, hoa sen và cây tre là hai hình tượng đặc trưng. Nếu hoa sen là sự kết tinh giá trị nhân văn của dân tộc, thì cây tre là biểu trưng của bản lĩnh quật cường, ý chí bất khuất của con người Việt Nam. Từ xa xưa, những ý niệm về quốc gia – dân tộc của Việt Nam được hình thành từ sự cố kết cộng đồng trải qua hàng nghìn năm trường kỳ phòng, chống thiên tai và địch họa. Cây tre Việt tạo nên những lũy, thành, giúp cha ông ta bảo vệ làng quê trước thiên tai, địch họa, thoát khỏi ách ngoại xâm. Hình tượng Thánh Gióng cùng cây tre hóa thân thành một trong bốn vị thánh “Tứ bất tử” sống mãi trong tâm thức người dân Việt Nam. Cây tre đã trở thành vũ khí đánh giặc, là biểu tượng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là tinh thần quật cường đồng sức, đồng lòng cứu nước. “Sức mạnh cứng” có thể có hạn, nhưng “sức mạnh mềm”, sức dân là vô tận.

Mặc dù bản chất, ý nghĩa sâu xa của hình tượng, trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”: Gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam hầu như ai cũng biết, nhưng BBC News Tiếng Việt, cũng như Thoibao.de… vẫn cố tình suy diễn, xuyên tạc rằng “hòa bình ngày nay mong manh, luôn có thể bùng phát thành xung đột, như ở Trung Đông và Đông Âu hiện nay… Trong bối cảnh đó, nền “Ngoại giao cây tre” bị hiểu thiên về ứng phó bị động, thay vì hành động có tính chất chủ động, nhất là thể hiện vai trò lãnh đạo trong các thể chế khu vực”(?!). VOA lại bình luận, suy diễn với giọng lưỡi uốn éo, dạng tung hỏa mù, cố tình che đậy bản chất thực, rằng “Tổng Bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tiếp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong khung cảnh cây trúc uốn éo, gây nhiều tranh cãi… “không hiểu” Đảng Cộng sản Việt Nam muốn đưa ra thông điệp gì từ những cây tre “cong queo”, “ngoằn ngoèo”, “dị dạng”, “lươn lẹo” như vậy(?!). Trong khi, quan niệm lâu nay trong dân gian Việt Nam là những cây thuộc họ tre, trúc, tượng trưng cho người quân tử ngay thẳng(?!). VOA lý giải, điều hiển nhiên mà Việt Nam ai cũng biết “tre đằng ngà và tầm vông thường được nhắc đến trong sách vở Việt Nam, như là những loại vũ khí hay ý chí chống giặc ngoại xâm trong quá khứ”. Mặc dù chúng cố ý bình luận theo kiểu “hỏi xiên, đáp xẹo” như vậy, nhưng VOA cũng phải thừa nhận rằng, “có rất nhiều người và các trang mạng ủng hộ chính quyền Việt Nam” và lập luận “cây tre tại tiệc trà của hai ông Trọng – Tập, chung một gốc và uốn lượn sang hai bên ngụ ý rằng, hai quốc gia tương đồng về gốc rễ, văn hóa và hiện tại là hai nước độc lập, cân bằng!”.

Với những bình luận, hoặc nhận xét như trên, có thể họ chỉ thấy ảnh, mà không hề động não, hoặc đã biết, nhưng lại cố tình phủ nhận bản chất và ý nghĩa đích thực của hình tượng cây tre và bản sắc ngoại giao Việt Nam! Xin nhắc lại về trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Về bản sắc ngoại giao: Vững ở gốc là truyền thống tự lực, tự cường, vì lợi ích quốc gia – dân tộc, là tinh thần đoàn kết, nhân ái, thủy chung. Chắc ở thân là bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách và khó khăn, trước vất vả và gian lao. Uyển chuyển ở cành là sự mềm mại, khôn khéo, sáng tạo. Về đường lối, chiến lược và chính sách ngoại giao: Vững ở gốc là đường lối đối ngoại độc lập – tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế trong thời kỳ đổi mới. Về phong cách ngoại giao: Vững ở gốc là bản lĩnh can trường, lập trường chính trị và văn hóa, cốt cách dân tộc thấm đượm trong mỗi người làm đối ngoại. Chắc ở thân là kiến thức sâu rộng, tư duy nhạy bén, phương pháp ngoại giao khoa học. Uyển chuyển ở cành là kỹ năng đối ngoại đa văn hóa, nghệ thuật “kiến tạo tương đồng và hóa giải tương khắc”, để từ đó hài hòa được lợi ích riêng của Việt Nam với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, vì hòa bình và phát triển của nhân loại. Cội nguồn sâu xa của bản sắc ngoại giao Việt Nam xuất phát từ những triết lý và truyền thống ngoại giao của cha ông ta. Đó là tinh thần độc lập, tự cường, hòa mục bên trong, hòa hiếu bên ngoài. Đó là kiên quyết, kiên trì, biết thắng từng bước để đạt thắng lợi cuối cùng. Đó là nghệ thuật dùng ngòi bút thay giáp binh, lấy lẽ phải, chính nghĩa để thuyết phục lòng người. Nền tảng cốt lõi của bản sắc ngoại giao Việt Nam hiện đại là tư tưởng, phương pháp, phong cách, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh. Bản sắc đó được nâng lên tầm cao mới bởi tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, với những bài học “dĩ bất biến ứng vạn biến”, “ngũ tri”, biết nhu, biết cương, giúp bạn là tự giúp mình, vì hòa bình, hợp tác và sự tiến bộ của nhân loại. Đặc trưng quan trọng của bản sắc ngoại giao Việt Nam là không ngừng kế thừa và phát triển, sàng lọc qua thực tiễn và chắt lọc, tiếp thu những giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại. Từ những hình ảnh dung dị, quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày, hình tượng cây tre đã gắn với bản sắc ngoại giao Việt Nam một cách nhuần nhị, thấm đượm triết lý dựng nước và giữ nước, đối nhân xử thế và quan hệ bang giao của dân tộc. Tre Việt Nam cứng cỏi mà linh hoạt. Do đó, thể hiện đặc điểm đáng quý của truyền thống ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh là thủy chung, chính nghĩa, “kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược”. Nguyên tắc là độc lập, tự chủ, là lợi ích quốc gia – dân tộc. Sách lược là những biện pháp khéo léo, linh hoạt nhằm giữ vững nguyên tắc đó. Vì cội gốc và mục đích vững chắc đó nên ngoại giao Việt Nam luôn vững vàng, thích ứng trước những khắc nghiệt và chuyển biến của thời cuộc. Tre Việt Nam phát triển tốt ở cả những nơi đất cằn, không kén chọn. Tre phục vụ đất nước, phục vụ người dân. Cả đời tre cống hiến cho cuộc sống của người dân Việt Nam: là thức ăn, là nguyên liệu tạo nên công cụ lao động, để làm nhà, làm rào chắn, làm vũ khí… Tre tiên phong giữ đất, giữ làng, góp phần giữ gìn cuộc sống yên bình và no ấm, trở thành một thành lũy kiên cố tự nhiên ngoài cùng bao bọc cộng đồng cư dân. Tre Việt Nam không đứng một mình, mà sống quần thể, thành khóm, thành bụi, nhờ đó mà vững vàng và làm nên thành lũy. Ngoại giao Việt Nam cũng không làm một mình, mà luôn đồng lòng sát cánh cùng các lực lượng khác, từ đó phát huy vai trò chủ chốt trong tổng thể chung của mặt trận đối ngoại. Tre già, măng mọc – đó là lẽ tự nhiên, là bản chất, quy luật truyền thống. Ngoại giao luôn cầu thị, tự hoàn thiện mình, cũng là tự tu thân, để phấn đấu và phấn đấu hơn nữa trở thành đội ngũ “vừa hồng, vừa chuyên”, hết lòng, hết sức vì Đảng, vì đất nước, vì nhân dân; “biết gắn bó và san sẻ”, “phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở; làm nên đất nước muôn đời”.

Ngoại giao là sự giao thoa của chính trị – an ninh, kinh tế – xã hội và văn hóa, là sợi dây kết nối quá khứ với hiện tại, lịch sử và tương lai, đất nước với thế giới. Hình tượng, cốt cách ấy của cây tre rất gần gũi với nền ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Đó là nền ngoại giao độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế, kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, thủy chung, chính nghĩa, vì hòa bình, hợp tác và tiến bộ của nhân loại. Thời gian qua, thế giới trải qua những biến động lớn, rất phức tạp, Việt Nam đã xử lý đúng đắn các vấn đề đối ngoại, quan hệ với các đối tác trên cơ sở kiên định độc lập, tự chủ, hòa hiếu, đồng thời linh hoạt trong sách lược, ứng xử. Chưa bao giờ vị thế, uy tín và hình ảnh nước Việt Nam độc lập, tự chủ, phát triển năng động, là bạn bè thủy chung, chân thành, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và có trách nhiệm lại nổi bật trên trường quốc tế như hiện nay. Cho dù các thế lực thù địch, phản động ra sức công kích, xuyên tạc, phá hoại chủ trương, đường lối và chính đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam thì biểu tượng trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” không ngừng củng cố và phát triển mạnh mẽ, thể hiện gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam./.

Thứ Năm, 21 tháng 12, 2023

TIỀN CÓ THỂ MUA ĐƯỢC NHIỀU THỨ, NHƯNG KHÔNG ĐỔI ĐƯỢC PHẨM GIÁ CỦA MỘT CON NGƯỜI

100 ngàn - số tiền đối với nhiều người chỉ đáng vài ba bát phở, có thể vung ra mà chẳng cần phải đắn đo hay nghĩ ngợi gì cả nhưng đối với những người nghèo thì đó là cả một ngày trời bươn chải, vất vả mới có thể kiếm được.

Lời xin lỗi vì sai sót của bản thân và lời cảm ơn khi được khách tặng số tiền. Hành động của cô gái bán vé số đủ cho chúng ta thấy người ta có thể thiếu thốn về tiền bạc nhưng không có nghĩa là họ có thể đánh đổi phẩm giá của mình để vụ lợi những thứ vốn không thuộc về bản thân.



Thứ Ba, 19 tháng 12, 2023

Đừng bày trò đánh tráo khái niệm vụ ông Lưu Bình Nhưỡng

N.Trần_Liên


Vụ việc ông Lưu Bình Nhưỡng bị Cơ quan (Cảnh sát điều tra) CSĐT Công an tỉnh Thái Bình ra quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt bị can để tạm giam, khám xét nơi ở, nơi làm việc để điều tra về tội “Cưỡng đoạt tài sản” đã được thông tin minh bạch, rõ ràng và kịp thời đến dư luận. Nhưng một số kẻ vẫn cố tình không chịu hiểu, bẻ lái đánh tráo khái niệm cho rằng “đây là vụ án mang màu sắc chính trị”.

Một kẻ có tên là Trà My đưa ra luận điệu vô cùng phi lý từ bài viết đăng trên mạng xã hội với tiêu đề: “Tại sao Tô Lâm vội cho “bắt non” ông Lưu Bình Nhưỡng khi thiếu chứng cứ vững chắc?”. Đại khái lý luận của kẻ có tên Trà My này cho rằng vì ông Lưu Bình Nhưỡng hay nói động chạm đến các vấn đề xã hội, động chạm cả đến cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là công an và tòa án nên mới bị…trả thù bằng vụ án hình sự. Kích động và xuyên tạc hơn khi kẻ có tên Trà My đưa ra thuyết âm mưu cho rằng ông Lưu Bình Nhưỡng là “nạn nhân của một âm mưu chính trị lớn”.

Được biết, ông Lưu Bình Nhưỡng từng là đại biểu Quốc hội Khóa XIV, được biết đến là người hay có những phát biểu tranh luận gây nhiều tranh cãi tại nghị trường, đặc biệt liên quan đến các vấn đề “nóng” của xã hội. Rất nhiều các phát biểu của ông này được các đối tượng xấu lấy làm chất liệu để xuyên tạc, bẻ lái để bôi xấu Đảng và Nhà nước. Vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi ông Lưu Bình Nhưỡng bị bắt trong một vụ án hình sự thì những kẻ này lại “lớn giọng” để tiếp tục việc xuyên tạc, đánh tráo khái niệm.

Theo thông tin từ Công an tỉnh Thái Bình, ngày 14/11/2023, ông Lưu Bình Nhưỡng (nguyên Phó trưởng Ban Dân nguyện của Ủy ban Thường vụ Quốc hội) bị Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Bình ra quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh khám xét nơi ở, nơi làm việc để điều tra về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, quy định tại Điều 170, Bộ luật Hình sự. Đây là kết quả điều tra mở rộng vụ án Phạm Minh Cường (37 tuổi, thường gọi là Cường “quắt”, trú tại xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) về tội “Cưỡng đoạt tài sản” quy định tại khoản 4, Điều 170, Bộ luật Hình sự.

Theo tài liệu điều tra, khi biết thông tin một số doanh nghiệp được UBND tỉnh Thái Bình cấp phép cho khai thác cát tại mỏ cát ven biển xã Thụy Trường, huyện Thái Thụy, Cường cùng đồng bọn đã tự ý xác lập quyền sử dụng trái phép các bãi triều nhằm gây sức ép, buộc các doanh nghiệp phải trả tiền theo khối lượng cát khai thác được, hoặc bán lại một phần cho Cường với giá rẻ hơn giá thị trường. Cơ quan điều tra nhận định, đây là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, số tiền chiếm đoạt lớn, gây bức xúc trong nhân dân, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến hình ảnh, môi trường đầu tư của tỉnh. Công an tỉnh Thái Bình đã mở rộng điều tra vụ án, tập trung làm rõ các đối tượng có hành vi tiếp tay, giúp sức cho bị can thực hiện hành vi phạm tội để xử lý theo quy định của pháp luật. Trước đó, vào năm 2022, Cường “quắt” từng bị Công an tỉnh Thái Bình khởi tố và bắt giam về tội “Cố ý gây thương tích”, “Gây rối trật tự công cộng”. Quá trình bắt, khám xét đối với bị can Lưu Bình Nhưỡng, cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Bình cũng đã thu giữ nhiều đồ vật, tài liệu có dấu hiệu vi phạm pháp luật phục vụ công tác điều tra, mở rộng vụ án. Với các tài liệu có liên quan đến vụ án thu được, việc ông Nhưỡng bị bắt, khởi tố để điều tra mở rộng vụ án Phạm Minh Cường là đảm bảo đúng quy trình tố tụng.

Tính chất, mức độ vi phạm, sự liên quan của bị can Lưu Bình Nhưỡng trong vụ án “Cường quắt” như thế nào, hành vi cưỡng đoạt tài sản ra sao, cơ quan CSĐT đang tiếp tục làm rõ và sẽ có kết luận cụ thể. Theo thông tin từ Phó trưởng Ban Nội chính Trung ương Nguyễn Văn Yên cho biết, vụ ông Lưu Bình Nhưỡng chưa thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chỉ đạo, xem xét. Hiện các cơ quan chức năng đang thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, theo đúng thẩm quyền.

Như vậy, quan điểm của Đảng, Nhà nước và các cơ quan thực thi pháp luật rất rõ ràng: Ghi nhận những đóng góp của ông Lưu Bình Nhưỡng nhưng nếu có sai phạm thì phải xử lý nghiêm.

Những kẻ như Trà My với thủ đoạn “lật án” khi xuyên tạc đánh tráo khái niệm, bản chất của vụ việc liên quan đến ông Lưu Bình Nhưỡng. Những kẻ này và đồng bọn luôn cố tình định hướng, bẻ lái từ một vụ án hình sự sang vụ án mà theo chúng là “có màu sắc chính trị”, để rồi từ cơ sở này chúng đưa ra đủ mọi loại thuyết âm mưu bỉ ỏi, trong đó có những chi tiết cực kỳ vô lý để vu khống cho các lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước đặc biệt là trong cơ quan công an, tòa án hay nội chính. Bọn chúng bày trò cổ súy, tung hô những người vi phạm pháp luật như ông Lưu Bình Nhưỡng thực ra chẳng vì mục đích tốt đẹp gì cả. Điều mà chúng muốn là qua đó xuyên tạc, công kích, bôi nhọ, hạ bệ hệ thống pháp luật Việt Nam. Những luận điệu trên vốn dĩ không phải là thủ đoạn mới, bởi từ trước đến nay lợi dụng nhiều đối tượng bị bắt, chúng cũng đưa ra những bài viết đày rẫy thông tin sai sự thật để lèo lái dư luận, rồi niết bao những lời hô hào với các thủ đoạn tương tự.

Việc khởi tố, bắt tạm giam ông Lưu Bình Nhưỡng, nguyên Đại biểu Quốc hội, một lần nữa cho thấy việc xử lý vi phạm không có vùng cấm, dù đó là người có chức vụ, quyền hạn hay một người dân bình thường. Mọi việc đang được cơ quan điều tra tiến hành đúng thủ tục, thẩm quyền để đưa ra kết luận cụ thể liên quan đến những sai phạm và mức độ vi phạm của ông Lưu Bình Nhưỡng. Đây cũng là bài học cho bất cứ Cán bộ, Đảng viên hay một công dân bình thường nào khác, phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Đã không biết thì đừng có suy diễn, quy chụp rồi dựng chuyện, bịa đặt rồi xuyên tạc, đánh lừa dư luận nhằm công kích, chống phá chế độ nhé Trà My.

Khi người dân tin tưởng và đồng thuận

Chuyến thăm Việt Nam của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình đã thành công tốt đẹp, đánh dấu chương mới trong quan hệ giữa hai Đảng, nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc. Tuy nhiên, trên các trang mạng xã hội, kênh tiếng Việt của một số đài quốc tế, như: RFA, VOA, BBC,… lạiđăng tải nhiều bài viết xuyên tạc về sự kiện này. Điển hình là ngày 12/12, kênh tiếng Việt Đài RFA đăng bài: “Đàn áp” làm giới bất đồng chính kiến im lặng về chuyến thăm Việt Nam của Tập Cận Bình”, vu cáo trắng trợn, suy diễn vô căn cứ đối với các cấp chính quyền Việt Nam trong việc “đàn áp” công dân Cần bị vạch trần, lên án.

Chúng ta đều biết, thế giới đang bước vào kỷ nguyên của khoa học và công nghệ. Để không bị bỏ lại phía sau, các quốc gia trên thế giới phải tăng cường quan hệ, hợp tác với nhau trên nhiều lĩnh vực, trở thành đối tác tin cậy lẫn nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Và, Việt Nam cũng không thể đứng ngoài xu thế đó. Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã tăng cường mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác với tất cả các nước, tổ chức quốc tế khi tôn trọng độc lập, chủ quyền, có thiện chí, muốn hợp tác để cùng phát triển. Đặc biệt, trong năm 2022, 2023 đánh dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của quan hệ ngoại giao, khi Việt Nam đã nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện với nhiều nước, như: với Hàn Quốc (tháng 12/2022), Mỹ (tháng 9/2023), Nhật Bản (tháng 11/2023). Cũng trong thời gian này, lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta có nhiều chuyến công tác, làm việc tại nhiều quốc gia trên thế giới; đồng thời, nhiều nguyên thủ các quốc gia cũng đã đến thăm, làm việc tại Việt Nam, đặc biệt là chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Joe Biden và gần đây nhất là chuyến thăm của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình. Thông qua đó, mở ra nhiều cơ hội hợp tác, phát triển, khẳng định uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước, thành viên có trách nhiệm của các tổ chức quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới (có cả 05 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc); trong đó, hơn 30 nước là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện; 06 nước là đối tác chiến lược toàn diện (Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản).

Trên thực tế, mặc dù Việt Nam tăng cường mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, song Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, không phụ thuộc, không chịu sự chi phối, gây áp lực bởi bất kỳ quốc gia nào, thế lực nào. Đây là chân lý không thể thay đổi và được dư luận xã hội, các tầng lớp nhân dân đồng tình, ủng hộ.

Cùng với đó, Đảng, Nhà nước ta luôn cố gắng hoàn thiện hệ thống pháp luật, kịp thời ban hành các văn bản quy phạm pháp luật giải quyết, khắc phục những bất cập, vướng mắc mà thực tiễn đặt ra để xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Đồng thời, đẩy mạnh quyết liệt công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với tinh thần “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, không có vùng cấm, không có ngoại lệ để làm trong sạch bộ máy. Cấp ủy, chính quyền các địa phương sâu sát, gần dân, lắng nghe ý kiến phản ánh của nhân dân để điều chỉnh, giải quyết kịp thời những vướng mắc. Đặc biệt, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch covid-19, song với sự nỗ lực của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và toàn dân nên nền kinh tế đất nước vẫn phát triển, tăng trưởng khá. Từ đó, có tiềm lực để tăng lương tối thiểu từ ngày 01/7/2023 và dự kiến thực hiện cải cách tiền lương từ ngày 01/7/2024 góp phần tăng thêm thu nhập, nâng cao đời sống cho cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, người lao động và nhân dân.





Những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển đối ngoại của đất nước đã làm cho nhân dân tin tưởng, đồng thuận với đường lối lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đồng lòng, quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì thế, RFA cho rằng: Sự đàn áp khốc liệt của chính quyền khiến những người bất đồng chính kiến không thể hiện những hành động cụ thể phản đối chuyến thăm của ông Tập Cận Bình là không có cơ sở, là sự vu cáo, suy diễn vô căn cứ với dụng ý xấu. Bởi, bản chất của họ là khi thấy tình hình đất nước yên ổn, thì lại “bới lông tìm vết”, tung tin kích động, xuyên tạc để nói xấu chế độ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân nhằm gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội./.

Thứ Hai, 18 tháng 12, 2023

Vạch mặt thủ đoạn “Thống kê nhanh” của Gia Minh



Với lý lẽ và cách nhìn phiến diện của những kẻ đội lốt “dân chủ”, lợi dụng vấn đề “nhân quyền” để bao biện cho những kẻ vi phạm pháp luật Việt Nam, mà theo chúng gọi là: “Tù nhân chính trị”, “Tù nhân lương tâm” phạm tội trong quá trình đấu tranh vì “dân chủ, nhân quyền”. Diễn theo tích cũ, ngày 12/12/2023, trên trang facebook của Việt Tân, Gia Minh đăng bài viết: “Thống kê nhanh về tình hình nhân quyền tại Việt Nam hiện nay”. Trong bài viết, Y cho rằng: từ năm 2022 đến nay, chính quyền Việt Nam đã truy tố 123 người và kết án tù 98 người vì các lý do chính trị và tôn giáo.





Cần khẳng định rõ: đây là luận điệu xuyên tạc, vu khống trắng trợn như “bài ca” muôn thủa khi đề cập về vấn đề “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” ở Việt Nam theo tiêu chí của các tổ chức phản động chống phá Việt Nam.

Xin nhắc để Gia Minh và những kẻ cùng hội, cùng thuyền biết: Điều 3, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Và, trên cơ sở Hiến pháp, các quy định về quyền con người đã được quy định cụ thể trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, như: Luật Tín ngưỡng Tôn giáo năm 2016, Luật An ninh mạng năm 2018, Luật Báo chí năm 2016, v.v. Không chỉ vậy, Việt Nam đã và đang tham gia hầu hết các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người, như: Công ước về các Quyền Dân sự và Chính trị 1966 (ICCPR), gia nhập ngày 24/9/1982; Công ước về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa 1966, gia nhập ngày 24/9/1982; Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ 1979,... và những đóng góp lớn được cộng đồng quốc tế công nhận. Đặc biệt, ngày 11/10/2022, Việt Nam đã trúng cử trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 tại phiên họp của Đại hội đồng Liên Hợp quốc khóa 77. Kết quả này không chỉ là minh chứng rõ ràng nhất về thành tựu và những giá trị tốt đẹp về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam mà còn khẳng định rõ sự tín nhiệm của quốc tế đối với Việt Nam trong lĩnh vực này.

Trở lại cái gọi là: “Tù nhân chính trị”, “Tù nhân lương tâm” phạm tội trong quá trình đấu tranh vì “dân chủ”, “nhân quyền” theo cách nói xuyên tạc của Gia Minh và đồng bọn, thực chất là những đối tượng vị phạm luật pháp Việt Nam, mà Phạm Thị Đoan Trang là một điển hình. Những đối tượng này đã bị xét xử, phán quyết công khai trước Tòa án nhân dân các cấp theo đúng luật định. Đó là lẽ thường như bao quốc gia khác khi xử lý các đối tượng vi phạm pháp luật, đâu chỉ riêng có ở Việt Nam? Vậy hà cớ gì, những kẻ núp bóng “dân chủ”, “nhân quyền” là ra sức xuyên tạc và kêu gào: “Yêu cầu chính quyền Việt Nam trả tự do cho các tù nhân lương tâm”?

Thực chất đằng sau chiêu trò này là một âm mưu cực kỳ nham hiểm, một mũi nhọn tổng thể trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, đặc biệt là Tổ chức khủng bố Việt Tân, nhằm cớ tạo ra các cuộc bạo động, biểu tình chống đối chính quyền, gây mất ổn định chính trị, xã hội của đất nước; gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là một thủ đoạn cực kỳ nham hiểm, thâm độc. Vì vậy, chúng ta cần đề cao cảnh giác, vạch mặt, kiên quyết đấu tranh bác bỏ./.

Chủ Nhật, 17 tháng 12, 2023

Việt Nam luôn giữ vững độc lập, tự chủ trong quan hệ đối ngoại

          Nhân chuyến thăm Việt Nam của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình, ngày 11/12/2023, VOA đăng bài viết của Lê Quốc Quân, cho rằng, “Trung Quốc đang tận dụng vị thế cường quốc để gây sức ép rất lớn lên hệ thống chính trị Việt Nam, đặc biệt trong chuyến đi lần này của ông Tập Cận Bình”. Đây là nhận định võ đoán, hoàn toàn sai trái, không có cơ sở nhằm xuyên tạc, chia rẽ mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc; xuyên tạc đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước  Việt Nam.


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
với Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.

         

Với đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 nước, vùng lãnh thổ; có quan hệ đối tác chiến lược/đối tác toàn diện với 33 nước, trong đó có tất cả các nước lớn. Trong quan hệ ngoại giao, Việt Nam luôn thực hiện nhất quán, giữ vững độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Nhờ đó, Việt Nam được quốc tế tin cậy, ủng hộ, giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, môi trường hòa bình để phát triển đất nước.

Đối với Trung Quốc, là nước láng giềng có mối quan hệ truyền thống lâu đời, nhân chuyên thăm lần này của Tổng Bí thư Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình, nhằm làm sâu sắc quan hệ hai nước. Trong Tuyên bố chung, đã khẳng định: Việt Nam và Trung Quốc là láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, chế độ chính trị tương đồng, lý tưởng niềm tin tương thông, con đường phát triển gần gũi, cùng chung chí hướng, chia sẻ tương lai chung, đều nỗ lực vì nhân dân hạnh phúc và đất nước giàu mạnh, nỗ lực vì sự nghiệp cao cả hòa bình và tiến bộ của nhân loại.

Hướng tới tương lai, phía Trung Quốc nhấn mạnh kiên trì chính sách hữu nghị với Việt Nam, coi Việt Nam là hướng ưu tiên trong ngoại giao láng giềng. Phía Việt Nam khẳng định luôn coi quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam. Đây là lựa chọn chiến lược của hai bên.

Hai bên nhấn mạnh, kiên định ủng hộ hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước kiên trì tự chủ chiến lược, tự chủ lựa chọn con đường phát triển phù hợp với tình hình đất nước mình; kiên trì xử lý thỏa đáng và tích cực giải quyết bất đồng thông qua biện pháp hòa bình trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau, tôn trọng lẫn nhau, phù hợp với luật pháp quốc tế, duy trì đà phát triển tốt đẹp của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, đóng góp tích cực hơn nữa cho hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.

Đây là những tuyên bố, khẳng định đanh thép về mối quan hệ giữa hai nước trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi; thể hiện rõ đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Việt Nam, hoàn toàn không có việc gây sức ép lên hệ thống chính trị của Việt Nam, nhằm áp đặt, can thiệp vào công việc nội bộ của bên nào như bình luận, xuyên tạc của Lê Quốc Quân./.

Thứ Sáu, 15 tháng 12, 2023

Giải thưởng Lê Đình Lượng 2023 - “Trò hề” của Việt Tân

            Ngày 12/12, trang facebook Chân Trời Mới Media đăng bài “Tù nhân lương tâm Trương Văn Dũng được trao Giải thưởng Lê Đình Lượng 2023”. Bài viết đăng Thông cáo công bố thông tin người được trao giải của tổ chức Việt Tân rêu rao: “Đảng Việt Tân tổ chức trao giải thưởng vắng mặt cho ông Dũng trong một buổi lễ ở thủ đô Paris của Pháp trong ngày 10/12, đúng vào ngày kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, và cũng là ngày sinh nhật của ông Lê Đình Lượng”.

Cần khẳng định ngay rằng, đây là chiêu trò hết sức lố bịch, khoác áo “dân chủ”, “nhân quyền” của Việt Tân và các “nhà dân chủ” khi núp bóng trao “giải thưởng” để thực hiện mưu đồ chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Khi nhìn vào những nhân vật được họ “trao giải thưởng”, dễ dàng nhận thấy đây đều là những phần tử núp dưới danh nghĩa “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.

Chúng ta đều biết, Trương Văn Dũng (Sinh năm 1958, trú ngõ 73, Nguyễn Lương Bằng, Nam Đồng, Đống Đa, Hà Nội), đối tượng mà ngày 13/7/2023, Tòa án Nhân dân Cấp cao tại Hà Nội đã xét xử và tuyên án phúc thẩm đã tuyên Trương Văn Dũng y án sơ thẩm 06 năm tù về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, quy định tại Điều 88 Bộ luật Hình sự.

Theo cáo trạng, từ tháng 10/2015 đến tháng 5/2022, thông qua trả lời chương trình “Từ cánh đồng mây” tại một file video và một file audio, Trương Văn Dũng có hành vi tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân; tuyên truyền những luận điệu “chiến tranh tâm lý,” phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân thông qua các bài phỏng vấn, video, clip đăng tải trên mạng xã hội. Y còn có hành vi tàng trữ tài liệu dạng sách với tiêu đề “Những mảnh đời sau song sắt” và 11 tài liệu dạng sách với tiêu đề “Chính trị bình dân” có mục đích thông tin xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, tuyên truyền thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân. Bên cạnh đó, Dũng còn có 31 băng-rôn, biểu ngữ được in trên vải bạt và 11 tài liệu được in trên giấy với nhiều kích thước khác nhau có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặc dù đã có những hành vi vi phạm pháp luật nhưng Trương Văn Dũng vẫn vô cùng ngoan cố. Thậm chí, ngay trong phiên xử phúc thẩm, Dũng còn hô “đả đảo Đảng Cộng sản” tại tòa. Rõ ràng, Trương Văn Dũng chẳng hề có đóng góp gì cho sự phát triển của dân chủ, nhân quyền của đất nước. Thậm chí, cần phải chỉ thẳng rằng: đây là đối tượng đang dẫm đạp lên nền dân chủ, nhân quyền của nhân dân Việt Nam; đang xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của quốc gia, dân tộc; đi ngược lại sự phát triển của cộng đồng. Vậy hà cớ gì những người này lại được nhận “giải thưởng” về “nhân quyền”?. Điều đó chỉ là “trò hề” của Việt Tân và những kẻ đội lốt “nhà dân chủ”. Vì vậy, cần kiên quyết đấu tranh, bác bỏ./.

Thứ Năm, 14 tháng 12, 2023

Không thể bôi đen được sự thật

            Dù chuyến thăm hữu nghị Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình và phu nhân cùng đoàn đại biểu cấp cao đã thành công tốt đẹp, song trong những ngày qua, các trang mạng xã hội của tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam, như: Việt Tân, Tiếng Dân News, RFA, VOA Tiếng Việt, Nguyễn Văn Đài, Mạc Văn Trang,... vẫn xuất hiện với tần xuất dày đặc những thông tin nhằm suy diễn, bịa đặt và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của chuyến thăm hữu nghị này. Họ xuyên tạc  rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam đang tự chui đầu vào vòng kim cô, vào cái thòng lọng của Đảng Cộng sản Trung Quốc”.


          Cần khẳng định rằng: chuyến thăm cấp nhà nước tới Việt Nam của đồng chí Tập Cận Bình và Phu nhân và Đoàn đại biểu cấp cao của Đảng, Nhà nước Trung Quốc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với cả hai Đảng, hai Nước. Hai bên đều coi đây là hoạt động đối ngoại đặc biệt quan trọng. Phía Trung Quốc đã cân nhắc, tính toán rất kĩ về thời điểm tổ chức chuyến thăm Việt Nam, hướng ưu tiên trong chính sách ngoại giao láng giềng của Trung Quốc. Đây là hoạt động thăm nước ngoài cuối cùng của đồng chí Tập Cận Bình trong năm 2023 - năm đầu tiên Trung Quốc thực hiện Nghị quyết Đại hội XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Việt Nam xác định quan hệ với Đảng, Nhà nước Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu và lựa chọn chiến lược trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Chuyến thăm lần này cùng với chuyến thăm lịch sử tới Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ ngày 30/10 - 01/11/2022, ngay sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc có ý nghĩa quan trọng, để lại dấu ấn lịch sử cho quan hệ hai Đảng hai Nước.

Đánh giá về kết quả chuyến thăm, nhiều cơ quan thông tấn, báo chí và truyền thông của Việt Nam, Trung Quốc và quốc tế đều có chung đánh giá: chuyến thăm cấp nhà nước tới Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình và Phu nhân và Đoàn đại biểu cấp cao của Đảng, Nhà nước Trung Quốc đã thành công tốt đẹp, đạt được nhiều kết quả lớn, thể hiện sự coi trọng của Đảng, Nhà nước Trung Quốc và cá nhân đồng chí Tập Cận Bình đối với Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam cũng như đối với uy tín của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Trong chuyến thăm lần này, đồng chí Tập Cận Bình đã có các cuộc hội đàm với đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, hội kiến Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, v.v.

Lãnh đạo hai Đảng, hai Nước nhất trí đánh giá quan hệ hai Đảng, hai Nước đã phát triển tích cực và toàn diện. Trên sơ sở quan hệ truyền thống hai Đảng, hai Nước với phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt, cũng như sự phát triển tích cực của quan hệ hai nước trong thời gian vừa qua, đặc biệt sau chuyến thăm lịch sử tới Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai bên đã nhất trí tiếp tục phát triển và làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác Hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc; nhất trí xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược, nỗ lực vì hạnh phúc của nhân dân hai nước, vì sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Cùng với đó lãnh đạo hai Đảng, hai Nước cũng nhất trí thúc đẩy sự phát triển của quan hệ hai nước dựa trên cơ sở tuân thủ hiến chương Liên Hợp quốc, luật pháp quốc tế, các chuẩn mực của quan hệ quốc tế, nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, hợp tác bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, kiên trì giải quyết bất đồng thông qua biện pháp hòa bình. Hai bên đã ra Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc về việc tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm hơn nữa quan hệ Đối tác Hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược. Tuyên bố chung đã đề ra 06 phương hướng hợp tác lớn trong thời gian tới, bao gồm: tin cậy chính trị cao hơn; hợp tác quốc phòng - an ninh thực chất hơn; hợp tác thực chất sâu sắc hơn; nền tảng xã hội vững chắc hơn; phối hợp đa phương chặt chẽ hơn; bất đồng được kiểm soát và giải quyết tốt hơn.

Tuyên bố chung và những nhận thức chung trong các cuộc hội đàm cấp cao đã đề ra khuôn khổ, nội dung hợp tác rất toàn diện. Về quan hệ chính trị, hai bên nhất trí tăng cường giao lưu cấp cao có ý nghĩa chiến lược, mối quan hệ có tính chất đặc thù của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Về trụ cột hợp tác an ninh, quốc phòng, hai bên nhất trí tiếp tục phát huy các cơ chế hơp tác song phương hiện có, như tuần tra chung giữa cảnh sát biển và hải quân, các lực lượng biên phòng, hơp tác đào tạo nhân lực, có thêm những cơ chế mới trong lĩnh vực phòng chống tội phạm và các lĩnh vực khác. Về hợp tác phát triển, hai bên đã thống nhất rất nhiều nội dung hợp tác cụ thể, như vấn đề xuất khẩu nông sản và hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc, các lĩnh vực hợp tác mới mà hai bên cùng quan tâm, như kinh tế số, phát triển xanh,… cùng với đó, hai bên cũng nhất trí đẩy mạnh giao lưu nhân dân, tạo nền tảng xã hội thuận lợi cho việc phát triển quan hệ song phương bền vững, lành mạnh. Về vấn đề Biển Đông, lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta đánh giá hợp tác song phương và đa phương trên Biển Đông trong thời gian qua có nhiều bước phát triển tích cực, nhưng đồng thời vẫn còn tồn tại những bất đồng do lịch sử để lại, nêu rõ quan điểm trước sau như một của Việt Nam, khẳng định quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam, nhấn mạnh nguyên tắc giải quyết tranh chấp trên cơ sở tuân thủ nhận thức chung quan trọng của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nước, tôn trọng luật pháp quốc tế trong đó có Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS), thúc đẩy các cơ chế đàm phán hiện có, tránh những hành động làm phức tạp tình hình.

Hai bên đã ký 36 văn kiên hợp tác trên nhiều lĩnh vực, ở các cấp Trung ương và địa phương, tạo khuôn khổ quan hệ hợp tác lâu dài, làm phong phú nội hàm hợp tác giữa hai nước. Qua chuyến thăm lần này, Đảng và Nhà nước, nhân dân Trung Quốc và cộng đồng quốc tế đã hiểu rõ hơn những thành tựu Việt Nam đã đạt được, đường lối đối ngoại của Việt Nam, trong đó có “ngoại giao cây tre”, chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam. Sự thực trên khẳng định dù các thế lực thù địch có ra sức xuyên tạc cũng không thể bôi đen được đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Việt Nam./.

Thứ Ba, 12 tháng 12, 2023

"Bài Trung" - Một món nghề của những kẻ phá hoại



Những ngày này, các phần tử cơ hội, phản động, các thế lực thù địch đã nhân danh yêu nước, vì độc lập, chủ quyền quốc gia; đã dùng tâm lý “bài Trung” để không chỉ xuyên tạc mối quan hệ hữu nghị Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Trung Hoa, mà còn bẻ cong sự thật về chuyến thăm hữu nghị của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình và phu nhân đến Việt Nam ngày 12-13/12/2023 theo lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và phu nhân; theo lời mời của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và phu nhân.

Thứ nhất, những ngày này mạng xã hội full các loại tin, status kiểu như: “Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình có thể sẽ thăm Hà Nội từ ngày 12 đến 13 Tháng Mười Hai, Bloomberg xác nhận. Hai ông già “đồng chí” sẽ lại ngồi thảo luận về trà và trảm đối thủ chính trị” ngày 9/12/2023; “Tập Cận Bình được thế giới khâm phục về … độ trơ trẽn khi tham quyền cố vị và vi phạm nhân quyền trầm trọng nhất thế giới nhưng lại là khách quý của ĐCSVN” và “Tập Cận Bình sẽ tới Việt Nam để siết “vòng kim cô” với bộ chính trị ĐCSVN trong tuần tới. Toàn dân hãy cảnh giác!” ngày 10/12/2023; “Xin nhắc nhớ: chỉ có hai đảng cộng sản có nhu cầu chung vận mệnh. Còn nhân dân thì nói KHÔNG với kẻ suốt ngày chỉ lăm le cướp biển đảo của nhân dân Việt Nam” và “Phản đối Tập cận Bình đến Việt Nam. Không tiếp rước Tập” ngày 11/12/2023 trên fb của Việt Tân… Cùng với đó, các kiểu “thầy bói” phán như đúng rồi về mối quan hệ hữu nghị Việt – Trung  của Trương Nhân Tuấn trong bài “Cộng đồng chung vận mệnh” đăng trên Quyenduocbiet.com ngày 9/12/2023 hay các bài viết cũng được tung lên trang Chantroimoi.Media.com ngày 11/12/2023 như “Loạt văn kiện nào sẽ được ký trong chuyến thăm của ông Tập Cận Bình?” của Trường Sơn và “Mối tình hữu nghị” Việt – Hoa: Thách thức cũ, bối cảnh mới” của Trần Hiếu Chân…

 Tuy mạng xã hội “rộn ràng” như vậy, song cần phải khẳng định rằng: Việt Nam và Trung Hoa là hai quốc gia có núi liền núi, sông liền sông; có mối quan hệ lâu đời và nhất là kể từ ngày 18/1/1950 khi 2 nước thiết lập quan hệ ngoại giao cho đến nay, thì dù vẫn có những thăng trầm và những vấn đề cần tiếp tục giải quyết, song hữu nghị và hợp tác luôn là dòng chảy chính; là điểm sáng trong mối quan hệ giữa 2 nước. Đặc biệt, dù tình hình thế giới ngày càng phát triển nhanh chóng, phức tạp, khó lường và cục diện thế giới biến động nhanh chưa từng có trong vòng một thế kỷ qua, song Trung Quốc vẫn khẳng định “coi Việt Nam là phương hướng ưu tiên của ngoại giao láng giềng của Trung Quốc” và Việt Nam cũng “coi phát triển quan hệ với Trung Quốc là lựa chọn chiến lược và ưu tiên hàng đầu, Trung Quốc coi Việt Nam là phương hướng ưu tiên của ngoại giao láng giềng của Trung Quốc” như Thông cáo báo chí chung Việt Nam – Trung Quốc (ngày 8/9/2023).

Điều này có nghĩa là, mối quan hệ hữu nghị giữa 2 quốc gia vẫn, đã và đang tiếp tục phát triển suốt 73 năm qua; đồng thời, quan hệ đó cũng ngày càng được củng cố theo hướng linh hoạt, phù hợp, thực chất và hiệu quả; với những thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh… như truyền thông đã đăng tải, bất chấp những chiều trò, những thủ đoạn xuyên tạc , bôi đen về mối quan hệ giữa hai nước. Điều này càng trở nên có ý nghĩa hơn khi Tân Hoa Xã cũng cho rằng: Quan hệ Việt – Trung duy trì đà phát triển ổn định; đạt nhiều kết quả tích cực và “sự hợp tác giữa hai nước đã đạt tầm cao hơn khi hai nước kỷ niệm 15 năm quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện trong năm nay. Trung Quốc vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam trong nhiều năm, trong khi Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN” khi bình luận về chuyến thăm Việt Nam ngày 12-13/12/2023 của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình.

Thứ hai, trong 15 năm thiết lập quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện (2008 – 2023) giữa Việt Nam và Trung Hoa, việc tăng cường các chuyến thăm, tiếp xúc cấp cao của lãnh đạo 2 nước luôn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về định hướng chiến lược đối với sự phát triển của quan hệ giữa 2 Đảng, 2 Nhà nước và quan hệ song phương. Các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao như chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (30/10 đến 1/11/2022) diễn ra ngay sau khi Trung Quốc vừa tổ chức thành công Đại hội XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đặc biệt, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là lãnh đạo nước ngoài cấp cao nhất mà Trung Quốc tiếp đón sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Trung Quốc cũng là nước đầu tiên mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đi thăm từ sau Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam.  Chuyến thăm này của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “thể hiện sự coi trọng cao độ của chúng ta đối với phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước Trung – Việt” như Tổng Bí thư Trung Quốc Tập Cận Bình ghi nhận, chứ không phải “Trung Quốc luôn coi Việt Nam là một “chư hầu”. Cái nhìn của Trung Quốc về Việt Nam không thay đổi, trong thời kỳ “chiến tranh lạnh”, hay thời kỳ hai bên “có vận mệnh tương quan” như hiện thời. Việt Nam là một mô hình thu nhỏ của Trung Quốc” mà Trương Nhân Tuấn xuyên tạc, bịa đặt trong bài “Cộng đồng chung vận mệnh”.

Từ đầu năm 2023, lãnh đạo cấp cao 2 bên duy trì các hình thức trao đổi, tiếp xúc linh hoạt. Theo Đại sứ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam Hùng Ba thì quan hệ hai Đảng, hai nước Việt Nam – Trung Quốc là “rất đặc biệt và có thể nói là rất hiếm thấy trên thế giới”. Vì thế, sau 3 chuyến thăm Việt Nam (Lần đầu là tháng 12/2011 với cương vị Phó Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa; lần thứ 2 là tháng 11/2015 trên cương vị Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa; lần thứ 3 là tháng 11/2017 ngay sau khi Đại hội XIX của Đảng Cộng sản Trung Quốc thành công), thì chuyến thăm chính thức Việt Nam lần thứ 4 này của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình chính là một dịp “để lãnh đạo hai nước duy trì trao đổi và tiếp xúc chiến lược, xác định phương hướng củng cố hơn nữa quan hệ hai nước trên tinh thần tình hình mới, phương hướng mới, triển vọng mới, động lực mới”, chứ không phải vì “Việt Nam là một “chư hầu” thời hiện đại của Trung Quốc” và “Tập Cận Bình sẽ tới Việt Nam để siết “vòng kim cô” với bộ chính trị ĐCSVN” như xuyên tạc, hay “Tuyên bố chung được cho là sẽ có sự chuyển biến về chất, đánh dấu những chiều kích mới trong các phức tạp cũ “bằng mặt không bằng lòng” giữa hai Đảng và hai Nhà nước” mà Trần Hiếu Chân đoán mò từ sự suy diễn ngớ ngẩn.

Cũng theo Đại sứ Hùng Ba, thì “dự kiến trong khuôn khổ chuyến thăm, hai bên cũng sẽ ký kết hàng chục văn kiện hợp tác trên nhiều lĩnh vực, góp phần tăng cường tin cậy chính trị, mở rộng hợp tác thực chất đem lại lợi ích cho nhân dân hai nước và khu vực cũng như thế giới”. Đây mới là sự thật và sự thật này “vả” vào mặt Trần Hiếu Chân khi suy diễn kiểu “ngu còn tỏ ra nguy hiểm” rằng, “không phải là nhà tiên tri cũng có thể đoán biết ông sẽ tìm cách đè bẹp sự kháng cự của Hà Nội đối với “Cộng đồng chung vận mệnh” (CCD) do Bắc Kinh cổ súy (4). Tâm lý “đại quốc”, chẳng cần ngụy trang, mỗi lần “nói chuyện” với Hà Nội, Bắc Kinh luôn luôn muốn thúc giục “đứa con hoang đàng hãy trở về nhà” hay “ĐCSVN buộc phải đưa ra một vài thỏa hiệp, liên quan đến hai vấn đề mấu chốt là CCD và BRI. Đây được cho là cách tiếp cận tổng hợp để phát triển toàn cầu của “thiên triều” mà Việt Nam khó kháng cự lâu hơn nữa”.

Cuối cùng, cần phải khẳng định chắc chắn rằng: Quan hệ hữu nghị Việt – Trung được xây dựng, vun đắp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông luôn là tài sản chung quý báu của 2 Đảng, 2 nước; luôn được các thế hệ lãnh đạo 2 Đảng, 2 Nhà nước tiếp tục duy trì, vun bồi bằng nhiều hình thức khác nhau (những chuyến thăm, điện đàm, tham dự hội nghị, diễn đàn và những quyết sách…); luôn được các cơ quan bộ, ban, ngành cùng các địa phương và nhân dân 2 nước triển khai thực hiện bằng các cuộc hợp tác, thăm hỏi, tăng cường giao lưu nhân dân, thông tin tuyên truyền… sẽ không chỉ tiếp tục được củng cố và phát triển, mà còn góp phần từng bước xử lý ổn thỏa, kiểm soát tốt bất đồng, vì hòa bình, ổn định và hợp tác. Vì thế, đúng như Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Phạm Sao Mai chia sẻ: Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam vui mừng đón chào và dành sự tiếp đón “thắm tình hữu nghị, đồng chí anh em” đối với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình; đồng thời tin tưởng kết quả tốt đẹp từ chuyến thăm này sẽ góp phần củng cố hòa bình, hợp tác và phát triển của 2 nước cũng như ở khu vực và trên thế giới./.

 


Chủ Nhật, 10 tháng 12, 2023

Không để các thế lực thù địch chia rẽ quan hệ hợp tác quốc phòng Việt Nam - Lào - Campuchia



Minh Hiển

Thực tiễn lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của mỗi nước đã khẳng định thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu không gì lay chuyển nổi giữa quân đội và nhân dân ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia. Trong công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước hiện nay, mặc dù tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến chuyển nhưng mối quan hệ hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện này tiếp tục được lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân ba nước đặc biệt quan tâm, coi trọng, giữ gìn và phát huy.

Cùng với sự phát triển bền vững của quan hệ ba nước, quan hệ hợp tác quốc phòng Việt Nam – Lào – Campuchia cũng không ngừng được củng cố và phát triển, trở thành một trong những trụ cột quan trọng trong quan hệ ba nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc ở mỗi nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, chặt chẽ của Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, những năm qua, công tác đối ngoại quốc phòng của Việt Nam nói chung, quan hệ hợp tác quốc phòng với Lào và Campuchia nói riêng không ngừng được mở rộng và thúc đẩy. Công tác đối ngoại, trong đó có đối ngoại quốc phòng đã thực sự giữ vai trò tiên phong trong việc tạo lập quan hệ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa mọi nguồn lực bên ngoài để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mối quan hệ hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam với Lào và Campuchia đã đóng góp tích cực vào sự phát triển tốt đẹp của mối quan hệ giữa ba quốc gia láng giềng gần gũi, góp phần củng cố quan hệ hợp tác toàn diện, khắc sâu tình đoàn kết, hữu nghị đặc biệt.

Trên cơ sở các văn kiện về hợp tác quốc phòng và kế hoạch hợp tác hằng năm giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam với Bộ Quốc phòng Lào, hợp tác quốc phòng hai nước tiếp tục được thúc đẩy trên nhiều lĩnh vực đáng chú ý như: Trao đổi đoàn; đào tạo nguồn nhân lực; công tác đảng, công tác chính trị; xây dựng cụm bản; viện trợ; tìm kiếm, quy tập và hồi hương về nước hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh tại Lào; quản lý, bảo vệ biên giới; ủng hộ lẫn nhau và phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn quân sự, quốc phòng đa phương khu vực và quốc tế,.v.v… Điểm sáng, góp phần quan trọng củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Lào là mối quan hệ chặt chẽ, hiệu quả giữa các lực lượng bảo vệ biên giới. Cùng với phối hợp chặt chẽ, duy trì trao đổi thông tin, hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm biên giới, đặc biệt là phòng, chống tội phạm ma túy, gian lận thương mại, buôn lậu, hai bên còn tăng cường phối hợp trong ngăn chặn di cư tự do, xuất nhập cảnh trái phép; tham gia giải quyết tình trạng kết hôn không giá thú ở khu vực biên giới; phòng, chống dịch bệnh, đặc biệt là đại dịch COVID-19; phòng, chống khắc phục hậu quả thiên tai; tăng cường tuyên truyền phổ biến, giáo dục cho nhân dân khu vực biên giới; đẩy mạnh việc giao lưu, kết nghĩa giữa các địa phương, đơn vị giáp biên,… góp phần giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện cho nhân dân khu vực biên giới ba nước phát triển kinh tế – xã hội.

Quan hệ hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Campuchia cũng đạt nhiều kết quả quan trọng. Các cơ quan, đơn vị của hai bên đã quán triệt tốt sự chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Quốc phòng hai nước, tích cực, chủ động phối hợp, triển khai đầy đủ các nội dung hợp tác quốc phòng đã được thống nhất giữa hai bên, nổi bật là trên các lĩnh vực: Trao đổi đoàn; đối thoại chính sách quốc phòng cấp thứ trưởng; đào tạo nguồn nhân lực; tìm kiếm, quy tập và hồi hương về nước hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam hy sinh tại Campuchia. Các cơ chế, mô hình hợp tác như: Tuần tra chung, hội nghị thường niên, kết nghĩa quân dân, giao lưu sĩ quan trẻ;… được đẩy mạnh và phát huy hiệu quả. Lực lượng bảo vệ biên giới và các quân khu giáp biên của hai bên đã phối hợp chặt chẽ trong việc bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội khu vực biên giới. Công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân khu vực biên giới và quân đội hai nước được đẩy mạnh. Đặc biệt tuyên truyền cho thế hệ trẻ nói chung, cho lớp trẻ trong quân đội nói riêng về lịch sử, ý nghĩa, tầm quan trọng của tình đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa hai nước, hai quân đội qua các thời kỳ lịch sử được chú trọng. Bộ Quốc phòng hai nước đã phối hợp tổ chức nhiều hoạt động lớn, có ý nghĩa lan tỏa tích cực về tình đoàn kết quân dân hai nước Việt Nam – Campuchia. Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân đội Hoàng gia Campuchia cũng phối hợp, ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn, cơ chế đa phương,.v.v…

Trước bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường… Đặc biệt là các yếu tố tự nhiên đã tạo thành thế liên kết chặt chẽ, vững chắc, tạo điều kiện để ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia có thể hỗ trợ, bổ sung cho nhau để bảo vệ lẫn nhau và cùng nhau phát triển. Thấy rõ vị trí đắc địa ấy và tầm quan trọng của mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam – Lào – Campuchia nên các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách để chống phá. Chúng thường lợi dụng các vấn đề nhạy cảm, phức tạp để tuyên truyền xuyên tạc, kích động, chia rẽ… Chính vì vậy thường xuyên củng cố, tăng cường mối quan hệ đoàn kết Việt Nam – Lào – Campuchia, trong đó có đoàn kết giữa quân đội ba nước nhằm tạo lập môi trường hòa bình, ổn định là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Hợp tác về quốc phòng, an ninh là nhu cầu cấp bách, có ý nghĩa sống còn của mối quan hệ Việt Nam – Lào – Campuchia.

Có nhiều việc phải làm để thực hiện nhiệm vụ chiến lược quan trọng này. Nhưng có lẽ một trong những việc không thể xem nhẹ đó là đẩy mạnh tuyên truyền để nhân dân ba nước nói chung và cán bộ, chiến sĩ quân đội ba nước nói riêng nhận thức rõ về tầm quan trọng của mối quan hệ giữa ba nước láng giềng. Đặc biệt phải chú trọng tuyên truyền, giáo dục để các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, cán bộ, chiến sĩ quân đội ba nước thấu hiểu lịch sử, biết trân trọng, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết, hữu nghị tốt đẹp giữa Việt Nam – Lào – Campuchia. Đồng thời, thông qua tuyên truyền giúp cho nhân dân và quân đội ba nước nhận diện rõ ràng, đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động… Làm tốt được nội dung cơ bản ấy, chúng ta tin rằng dù bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có biến chuyển như thế nào đi chăng nữa thì ba nước, ba dân tộc, ba quân đội Việt Nam – Lào – Campuchia vẫn luôn kề vai sát cánh cùng nhau vun đắp cho mối quan hệ truyền thống ngày càng phát triển mạnh mẽ, vì lợi ích chung của nhân dân ba nước, vì hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và thế giới./.