Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2024

Quyền lực tối thượng ở Việt Nam là phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc

Thời gian gần đây, một số nhà “dân chủ” trong nước và ngoài nước thi nhau lu loa rằng, bộ máy chính trị ở Việt Nam đã lộng quyền, tha hóa quyền lực. Chúng cho rằng ở Việt Nam, quyền lực là độc tôn của Đảng Cộng sản Việt Nam, tức “tha hóa” ngay trong nội bộ Đảng mà không vấp phải sự phản ứng hay giám sát nào từ các đảng phái chính trị khác của thể chế; độc tôn chính trị tất sẽ,… “tham nhũng chính sách”, v.v. Thực tế đó chỉ là sự đánh tráo khái niệm, đánh đồng giữa hiện tượng và bản chất nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Đây thực chất là thủ đoạn, luận điệu bịa đặt, xuyên tạc hết sức nguy hiểm hòng chia rẽ Đảng với nhân dân, làm suy yếu, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, dù có sử dụng “trăm phương nghìn kế”, các thế lực thù địch cũng không thể phủ nhận được sự thật hiển nhiên:


Thứ nhất, bản chất quyền lực tối thượng ở Việt Nam là phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Kể từ khi đặt nền móng độc lập (02/9/1945) đến nay, Hiến pháp và luật pháp của Việt Nam luôn hướng tới những điều tốt đẹp, quyền lực tối thượng luôn để phục vụ nhân dân và Tổ quốc. Điều này là bất di bất dịch. Gần 80 năm qua, chúng ta đã hết sức kiên định, đem tất cả của cải và vật chất, trí tuệ và niềm tin, nhất quán với con đường đã chọn, nhưng cũng biết cách linh hoạt để bảo vệ quyền lợi cao nhất của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Để giữ gìn sự liêm chính của chính thể, sự trong sạch của bộ máy công quyền, những năm qua, chúng ta đã đẩy mạnh công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, kiên quyết “nhốt” quyền lực trong lồng cơ chế, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Xã hội Việt Nam ngày càng công bằng, dân chủ, văn minh hơn, trước hết do chúng ta đã biết tự cân bằng các khu vực quyền lực, ứng xử đúng mực với mọi giai tầng xã hội. Điều này không phải bây giờ mới diễn ra mà đã có từ thượng cổ. Đó chính là nền tảng văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng phong phú, sâu sắc, toàn diện và luôn được các thế hệ người Việt Nam vun trồng, bồi đắp và được Đảng ta phát huy.

Thứ hai,  Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là chính danh, hợp hiến và hợp pháp. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, năm 1992 và năm 2013 đều có một điều quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam,… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam”. Điều lệ Đảng quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền,… Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy”. Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được xây dựng trên cơ sở pháp lý đồng bộ và đồng thuận của các tổ chức có liên quan, không phải do Cương lĩnh, Điều lệ Đảng “đơn phương” quy định.

Trong bước đường phát triển, hoàn thiện, xã hội Việt Nam phải đối mặt và vượt qua nhiều thách thức, trở ngại, mà thách thức và trở ngại lớn nhất chính là quá trình thực thi quyền lực trong cơ chế chính trị một Đảng cầm quyền duy nhất ở nước ta. Điều này đã được Đảng, Nhà nước ta nhận thức sâu sắc, rõ ràng và đang nỗ lực thực hiện bằng nhiều giải pháp đồng bộ để bảo đảm cho đất nước ta phát triển lành mạnh, ổn định, bền vững, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc. Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng Đảng; gần đây, Bộ Chính trị (khóa XIII) đã ban hành Quy định số 114-QĐ/TW, ngày 11/7/2023 Về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ. Bên cạnh đó, các cơ chế, giải pháp cũng được quy định cụ thể hơn, chặt chẽ hơn. Điều này cho thấy, Đảng ta không ngừng hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa, đấu tranh với các biểu hiện tham nhũng, tha hóa quyền lực, nhằm bảo đảm mục tiêu ở đâu có quyền lực thì ở đó phải được kiểm soát chặt chẽ. Đảng ta luôn ý thức về sự lãnh đạo của mình chủ yếu phải bằng giá trị (văn hóa) chứ không phải bằng quyền lực, và Đảng phải nghĩ ra các cơ chế để đảng viên, nhân dân và pháp luật kiểm soát mình, kể cả nhân cách và việc sử dụng quyền lực, để Đảng được rèn luyện liên tục, thường xuyên; từ đó mà không bị thoái hóa và ngày càng trưởng thành hơn. Thực hiện điều ấy bằng cơ chế kiểm soát quyền lực và cơ chế thực thi dân chủ. Để có thể thành công, bản thân Đảng phải gương mẫu, từng cấp ủy và từng cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu, vượt qua chính mình.

Gần 80 năm qua, kể từ ngày lập quốc theo chế độ mới đến nay, việc thực thi quyền lực nhà nước của chúng ta ngày càng đúng đắn, tốt đẹp hơn, vì sự tối thượng là phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Do đó, cần phải đấu tranh, bác bỏ mọi thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc của các nhà “dân chủ” cố ý đánh đồng giữa hiện tượng và bản chất, đánh tráo khái niệm giữa sự tha hóa quyền lực của một bộ phận cán bộ với mục tiêu, bản chất thực thi quyền lực tối cao thuộc về nhân dân của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2024

HAY CHÚNG NÓ CÙNG MỘT RUỘT!

Ngay sau khi Bộ Công an Việt Nam công bố đưa tổ chức “Nhóm hỗ trợ người Thượng (MSGI)” và tổ chức “Người Thượng vì công lý (MSFJ)” vào danh sách các tổ chức khủng bố, thì VOA lập tức viện cớ vấn đề “dân chủ, nhân quyền”, “dân tộc, tôn giáo” đưa ra những thông tin sai lệch để vu cáo, xuyên tạc Việt Nam phân biệt đối xử, đàn áp người người dân tộc thiểu số dưới tiêu đề bài viết: “CSW phản đối việc Việt Nam liệt hai nhóm người Thượng là tổ chức khủng bố”. Đồng thời, chúng còn ra sức kêu gào sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế hòng chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.


Song, dù chúng có xuyên tạc, có lu loa, bịa đặt đến đâu thì vẫn không thể “biện minh” cho hai tổ chức khủng bố: tổ chức “Nhóm hỗ trợ người Thượng” và tổ chức “Người Thượng vì công lý”, bởi sự thật sau:

Một là, Tổ chức “Nhóm Hỗ trợ người Thượng” có tên tiếng Anh là “Montagnard Support Group, Inc.” viết tắt MSGI do các đối tượng Y Mut Mlô và Y Duen Bdăp (nguyên là thành viên tổ chức “Quỹ người Thượng – MFI” ở Mỹ) tuyên bố thành lập năm 2011. Tổ chức “Người Thượng vì công lý” có tên tiếng Anh là (Montagnards Stand For Justice) viết tắt MSFJ được thành lập vào năm 2019 bởi các đối tượng phản động: Y Phic Hdok (sinh sống tại Mỹ), Y Quynh Bdăp (sinh sống tại Thái Lan) cùng 15 đối tượng phản động, lưu vong khác. Hai Tổ chức, MSGI và MSFJ hoạt động theo phương thức bạo động, chủ trương lôi kéo, tuyển mộ thành viên ở trong nước, chủ yếu là người dân tộc thiểu số để kích động biểu tình, bạo loạn vũ trang; tài trợ tiền, vũ khí, phương tiện, huấn luyện, chỉ đạo tiến hành tấn công khủng bố, giết hại cán bộ và người dân, phá hoại tài sản của Nhà nước và nhân dân, đòi li khai, tự trị, thành lập “Nhà nước Đêga” ở Tây Nguyên.

Hai là, các thành viên của tổ chức “Nhóm hỗ trợ người Thượng (MSGI)” ở Hoa Kỳ và Tổ chức “Người Thượng vì công lý (MSFJ)” ở Thái Lan đã thường xuyên móc nối, dụ dỗ, lôi kéo các phần tử bất mãn, cùng một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số kém hiểu biết trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và các địa phương lân cận thành lập tổ chức khủng bố “Lính Đêga”, thực hiện các hoạt động tấn công, khủng bố gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Điển hình là rạng sáng ngày 11/6/2023, các đối tượng của tổ chức “Nhóm hỗ trợ người Thượng” và tổ chức “Người Thượng vì công lý” chia thành hai nhóm mang theo 04 khẩu súng AR15, 01 khẩu AK, 02 khẩu CKC, 02 khẩu Klip, 05 khẩu súng thể thao, 02 khẩu CPC, 01 khẩu súng ngắn Klip; 01 quả lựu đạn, 40 viên đạn AK, 400 viên đạn AR15 và một số loại đạn khác tấn công trụ sở Ủy ban nhân dân hai xã Ea Tiêu và Ea Ktur, giết hại bốn cán bộ công an, một bí thư xã, một chủ tịch xã và ba người dân, làm bị thương hai cán bộ công an xã, bắt cóc ba người dân làm con tin, đốt trụ sở xã và đập phá tài sản của người dân, gây thiệt hại hơn 2,5 tỉ đồng.

Cần khẳng định rõ rằng: vụ việc nhóm đối tượng dùng vũ khí tấn công trụ sở Ủy ban nhân dân hai xã Ea Tiêu và Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk xảy ra vào rạng sáng 11/6/2023, là vụ khủng bố chống chính quyền nhân dân với tính chất manh động, liều lĩnh, vô nhân tính, bất chấp đạo lý và luật pháp. Đây là kết luận không chỉ của Việt Nam, mà các nước trên thế giới đều lên án và xác định rõ là hành động của tổ chức khủng bố.

Như đã biết, không lâu sau khi vụ việc xảy ra, hầu hết các đối tượng tham gia vụ việc đã bị lực lượng chức năng bắt, điều tra và khởi tố theo quy định của pháp luật. Đến ngày 16/01/2024, Tòa án Nhân dân tỉnh Đắk Lắk mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án “Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân”; “Khủng bố”; “Tổ chức cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh trái phép”; “Che giấu tội phạm” đối với 100 bị cáo. Trong đó, 53 bị cáo bị xét xử về tội “Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân”; 39 bị cáo về tội “Khủng bố”; 01 bị cáo về tội “Tổ chức cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh trái phép; 01 bị cáo về tội “Che giấu tội phạm”; 06 bị cáo ở nước ngoài (gồm: Y Mút Mlô, Y Bút Êban, Y Niên Êya, Y Cik Niê, Y Chanh Byă, Y Quynh Bdap) bị xét xử về tội “Khủng bố”. Qua lời khai nhận của các bị cáo, đặc biệt các đối tượng cầm đầu, tất cả đã đồng ý với cáo trạng mà Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk công bố và thành khẩn khai nhận. Đây là bản án nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nhưng cũng đầy tính nhân văn của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dành cho các bị cáo. Qua đó, để cảnh tỉnh và răn đe đối với những đối tượng đang có âm mưu làm phức tạp tình hình an ninh trật tự ở vùng Tây Nguyên nói riêng và Việt Nam nói chung.

Như vậy, việc Bộ Công an Việt Nam đưa tổ chức “Nhóm hỗ trợ người Thượng” và tổ chức “Người Thượng vì công lý” vào danh sách các tổ chức khủng bố là hoàn toàn có căn cứ chính xác, đúng với quy định của pháp luật Việt Nam và Luật pháp quốc tế. Việc các thế lực thù địch càng ra sức “biện minh” cho cái gọi là tổ chức “Nhóm hỗ trợ người Thượng” và tổ chức “Người Thượng vì công lý” thì càng lòi cái bộ mặt xảo trá của chúng./.

Thứ Ba, 26 tháng 3, 2024

Dù ở thời nào thanh niên vẫn là lực lượng xung kích của dân tộc


Mấy hôm nay, lợi dụng việc ông Võ Văn Thưởng bị thôi các chức vụ, các loa tuyên truyền phản động trên mạng xã hội liền bâu vào rào rào, xì xầm như đám nhặng xanh, xuyên tạc, nói xấu đủ điều. Chúng lu loa rằng: chính trị Việt Nam loạn; cuộc chiến tranh giành ghế TBT trong nội bộ chóp bu của đảng; miền Nam hết quyền lực; Đoàn phái hết cơ…

Những lời nhục mạ chính trị Việt Nam như trên đúng là một thứ xú khí trong đống rác rưởi chính trị của bọn khoác áo dân chủ, mang tội phản dân hại nước, bôi bùn vào bàn thờ Tổ quốc.

Ở đây, không nói rộng ra các vấn đề khác, mà chỉ nói về vấn đề mà bọn tuyên truyền phản động âm mưu đạp đổ biểu tượng tuổi trẻ dân tộc.

1.Còn nhớ trong lịch sử nước ta, từ buổi đầu dựng nước đi đôi với giữ nước, truyền thuyết Bọc trứng Âu Cơ đã phản ánh trong nhân gian về cội nguồn khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mẹ Tiên cùng 50 người con ở lại vùng núi rừng để mở mang đất nước; Cha Rồng cùng 50 người con xuống biển để làm chủ biển cả. Như vậy, ngay từ buổi bình minh lịch sử dân tộc, tuổi trẻ đã trở thành lực lượng khai sơn, trị thủy, tạo dựng cơ đồ của nước Văn Lang tự lực, tự cường. Truyền thuyết Sơn tinh, Thủy tinh cũng là một dạng phản ánh sức mạnh chinh phục thiên nhiên của tổ tiên người Việt. Truyền thuyết Thánh Gióng, càng thể hiện sức mạnh của tuổi trẻ Việt Nam thời Hùng Vương dựng nước; dựa vào sức mạnh cộng đồng để làm nên đại thắng, tan giặc rồi chẳng màng lợi lộc. Những trai tráng dầm mình đóng cọc bày trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng đã góp phần mang lại hào khí Bạch Đằng giang năm 939, tạo bước ngoặt đưa nước nhà thoát khỏi hơn ngàn năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ độc lập lâu dài, tự chủ của nước ta. Đặc biệt, với tấm gương Trần Quốc Toản, Trần Bình Trọng thời Trần, càng tô đẹp khí phách anh hùng của tuổi trẻ Việt Nam trong sự nghiệp chống xâm lược, bảo vệ chủ quyền dân tộc.

Trong đêm trường nô lệ bởi ách đô hộ thực dân, phong kiến từ nửa cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, có biết bao tấm gương nghĩa hiệp, dám hy sinh thân mình cho sự nghiệp cứu dân, cứu nước. Trong phong trào Cần Vương, phong trào Duy Tân, phong trào chống thuế, trong phong trào nông dân, phong trào công nhân, kể cả những cuộc đấu tranh theo tư tưởng dân chủ tư sản, lực lượng thanh niên luôn tiên phong. Những nhân tố ưu tú nhất trong phong trào Đông Du đã gieo mầm cho khuynh hướng cứu nước mới. Phong trào Đông Kinh nghĩa thục là sự khát khao của người trẻ tuổi muốn làm giàu tri thức, muốn bồi đắp chí khí cho muôn dân. Có một người thanh niên đặc biệt mang tên Nguyễn Tất Thành, đã ấp ủ khát vọng tìm đường cứu nước, đã quyết chí ra đi để xem người ta làm thế nào có được tự do, bình đẳng, bác ái rồi sẽ trở về cứu đồng bào ta. Con người ấy đã thành công trên đường đời, nhưng không phải để thành danh cho riêng mình mà là thành công sự nghiệp cách mạng vĩ đại “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”, làm rạng rỡ non sông đất nước ta.

2.Vào đầu thập niên thứ 2 của thế kỷ XX, nhiều người Việt Nam tuổi còn trẻ, nhưng chí lớn chẳng còn non trẻ, họ bí mật xuất dương sang Quảng Châuđể tìmkiếm ánh sáng chân lý cách mạng, ở xứ người, họ liên kết với nhau trong tổ chức Tâm Tâm xã do Phan Bội Châu khởi xướng (hàm ý cùng một chí hướng cứu nước). May mắn, vào thời điểm đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đến Quảng Châu để gây dựng phong trào cách mạng, truyền bá  lý luận các mạng, chuẩn bị tiến tới thành lập chính đảng vô sản ở Việt Nam. Hội Thanh Niên Cách Mạng Việt Nam được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập (tháng 6 năm 1925) từ 9 thành viên của Tâm Tâm xã  đã được Người giác ngộ. Trong số các thành viên lớp đầu của tổ chức tiền thân cho chính Đảng về sau, có Hồ Tùng MậuLê Hồng SơnLê Hồng PhongVương Thúc OánhTrương Vân LĩnhLưu Quốc LongLâm Đức ThụNguyễn Thanh Phúc. Những con người nêu đã trở thành Đảng bậc tiền bối của Đảng, cách mạng nước ta.

Ngay sau khi ra đời, Đảng đã thấy rõ tầm quan trọng của việc xây dựng tổ chức Đoàn Thanh niên, Đảng coi đây là lực lượng xung kích trong phong trào cách mạng, là hạt giống đỏ cách mạng. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2, họp từ ngày 20 đến 26-3-1931 (tại nhà số 236, đường Richaud, nay là đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh) do đồng chí Tổng Bí thư Trần Phú chủ trì đã chỉ thị cho tổ chức Đảng ở các địa phương phải quan tâm đến việc xây dựng Đoàn Thanh niên. Hội nghị đã quyết định thống nhất các tổ chức Đoàn thành Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương.

Suốt chiều dài lịch sử cách mạng 93 năm, trải qua các thời kỳ lịch sử, cách mạng khác nhau, tổ chức chính trị của Đoàn Thanh niên với 7 tên gọi khác nhau, nhưng dù tên gọi là gì thì vẫn giữ được nhân lõi mục tiêu tối thượng là đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; là cánh tay phải của Đảng. Những lãnh tụ của Đảng trong thời kỳ vận động tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền đều là những người trẻ tuổi (tiêu biểu như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ). Người trẻ tuổi tiêu biểu của Thanh niên chính là Lý Tự Trọng, với câu nói nổi tiếng, như tuyên ngôn đanh thép về lý tưởng cộng sản của thế hệ thanh niên tiền bối của cách mạng: “Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể có con đường nào khác”. Noi gương Lý Tự Trọng, có hàng triệu, hàng triệu thanh niên Việt Nam đã xả thân cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng, bảo vệ độc lập dân tộc. Họ cũng chính là lực lượng xung kích trong dựng xây chế độ xã hội chủ nghĩa, tham gia đi đầu trong mọi phong trào thi đua ái quốc, xếp bút nghiên lên đường ra trận, viết huyết tâm thư để được vào quân ngũ, với tinh thần “cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Trong nghĩa trang liệt sĩ ở Điện Biên, ở Trường Sơn, ở Tây Ninh, ở Vị Xuyên…đều ghi tên những chiến sĩ hy sinh khi tuổi mới đôi mươi. Ở thành cổ Quảng Trị, có những liệt sĩ tuổi chưa thành niên. Qua gần 40 năm đổi mới đất nước, lực lượng Thanh niên đã mau chóng chiếm lĩnh tri thức khoa học, công nghệ, góp phần quan trọng đưa Việt Nam bước lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hội nhập sâu rộng với thế giới, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Các cuộc thi quốc tế về trí tuệ, khoa học, công nghệ mà tuổi trẻ Việt Nam có mặt, đều giật giải cao, làm rạng rỡ trí tuệ Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam.

Cơ đồ dân tộc có được như ngày hôm nay, vị thế, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế có được nâng cao như ngày nay, không thể phủ nhận công lao của Thanh niên qua các thời kỳ. Họ luôn xứng đáng với niềm tin tưởng, kỳ vọng của Bác Hồ kính yêu: Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội.

Vậy nên, những cái loa tuyên truyền phản động đừng hòng xuyên tạc, bôi nhọ truyền thống vẻ vang của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, họ vẫn luôn là lực lượng xung kích, là động lực tinh thần làm nên sức mạnh “đào núi và lấp biển”, đưa dân tộc Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu.

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2024

Những toan tính của "họ"!?

 Mới đây, đối tượng Phil Robertson, Phó Giám đốc phụ trách Ban Á châu thuộc Tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế (HRW) đã kêu gọi Bộ Ngoại giao Mỹ “đưa Việt Nam vào danh sách đặc biệt quan tâm về tình hình tự do tôn giáo (CPC) vì liên tục can thiệp và phá hoại việc thực hành quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng của các nhóm tôn giáo và giáo phái độc lập”. Rõ ràng hành động này của Phil Robertson đang đi ngược lại sự phát triển tốt đẹp trong quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ; cố tình xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, cần lên án, bác bỏ.

Các cộng đồng tôn giáo tại Việt Nam luôn được bảo đảm
quyền tự do hoạt động trong môi trường ổn định,
hòa hợp, bình đẳng, phù hợp pháp luật

Những năm qua, các tầng lớp nhân dân ở trong nước, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế đều dễ dàng nhận thấy bức tranh tôn giáo ở Việt Nam vô cùng sinh động, quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo của người dân được tôn trọng, bảo đảm, thực thi. Với quan điểm, đường lối, chính sách tôn giáo rõ ràng, nhất quán, các quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo được quy định rõ trong Hiến pháp, pháp luật và không ngừng được hoàn thiện, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách và ưu tiên giành nguồn lực để phát triển tôn giáo, bảo đảm thực thi các quyền con người, quyền tự do tôn giáo của nhân dân ngày càng tốt hơn. Với 16 tôn giáo, 43 hệ phái đã được Nhà nước công nhận, cấp phép hoạt động và gần 27 triệu tín đồ cùng hàng trăm nghìn chức sắc, chức việc các tôn giáo đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam là minh chứng sống động về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Thực tế đó đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, trong đó có Hoa Kỳ. Việt Nam đã 02 lần được bầu chọn là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc, đang giữ vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc, nhiệm kỳ 2023 - 2025 và là thành viên có trách nhiệm trong nhiều tổ chức quốc tế. Chính vì thế, trong năm 2023, hai nước Việt Nam, Hoa Kỳ đã nhất trí, đồng thuận nâng cấp, phát triển quan hệ lên mức cao nhất là Đối tác Chiến lược Toàn diện trên tinh thần tôn trọng, bình đẳng, hợp tác, cùng phát triển vì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Mặc dù được tạo điều kiện để các tôn giáo hoạt động theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thời gian qua, tại Việt Nam vẫn còn xuất hiện những tà đạo được một số tổ chức quốc tế tài trợ, hà hơi, tiếp sức, lén lút hoạt động truyền đạo trái pháp luật, lôi kéo người dân nhẹ dạ, cả tin, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, có các hành động tụ tập chống đối chính quyền, xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, v.v. Và, những đối tượng vi phạm pháp luật, vi phạm Luật Tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam năm 2016 đã bị xử lý theo quy định của pháp luật là việc làm hoàn toàn bình thường. Lợi dụng việc này, đối tượng Phil Robertson đã nhiều lần suy diễn, vu cáo, lu loa rằng Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, đàn áp tôn giáo là hoàn toàn không khách quan, hết sức phi lý nhằm thực hiện mục đích xấu.

Dân gian Việt Nam vốn có câu: “… nói lắm dẫu hay cũng nhàm”, lần này hành động, phát ngôn của Phil Robertson không những “nói lắm” mà còn nói không đúng với thực tế tôn giáo đang diễn ra ở Việt Nam, trở thành nói dở, nói nhàm, chẳng đáng để quan tâm./. 

Thứ Năm, 21 tháng 3, 2024

Tái diễn thủ đoạn “chính trị hóa” vụ án hình sự

 Liên quan đến vụ án xảy ra tại Tập đoàn Phúc Sơn và các đơn vị liên quan, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã khởi tố, bắt tạm giam nhiều bị can để điều tra, làm rõ các tội: Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng; nhận hối lộ; vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng và lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Lợi dụng mức độ vi phạm đặc biệt nghiêm trọng của vụ án và sự quan tâm của dư luận, các đối tượng xấu đã tung ra nhiều luận điệu suy diễn, xuyên tạc thiếu căn cứ để công kích chính quyền.

Nguyễn Văn Hậu cùng các bị cáo


Trong vụ án liên quan đến Tập đoàn Phúc Sơn, nhiều cán bộ chủ chốt của các địa phương đã “nhúng chàm” và bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an khởi tố, bắt tạm giam. Có thể kể đến các bị can: Hoàng Thị Thúy Lan, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc; Lê Duy Thành, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc; Cao Khoa, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi; Đặng Văn Minh, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi; Đặng Trung Hoành, nguyên Chánh văn phòng Huyện ủy Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long… Việc cơ quan chức năng mạnh tay đưa cả “củi khô” lẫn “củi tươi vào lò” thể hiện rõ tinh thần thượng tôn pháp luật, kiên quyết không bao che, thỏa hiệp cho vi phạm, bất kể người đó là ai, giữ cương vị gì. Tuy nhiên, đứng “bên kia chiến tuyến”, các thế lực thù địch, phản động, chống đối lại lợi dụng việc xử lý cán bộ vi phạm để tung ra nhiều luận điệu, thông tin sai trái, độc hại nhằm chống phá chính quyền. Chúng cho rằng: “việc xử lý vi phạm thực chất chỉ là cuộc chiến tranh giành quyền lực”, “khi cần thêm củi để ném vào lò hoặc cần hạ bệ ai đó trong cuộc tranh giành quyền lực, các tì vết của họ đã có trong quá khứ sẽ bị những kẻ gọi nhau là đồng chí lôi ra”, “cuộc đấu tranh giữa các phe nhóm lợi ích đã biến thái thành các cuộc thanh toán nhau có màu sắc mafia”, “người dân lẫn các đảng viên bình thường đều nhận thấy tham nhũng có tính đảng”… Đồng thời, chúng cũng tô vẽ ra nhiều “thuyết âm mưu”, thêu dệt nên nhiều mối quan hệ giữa các bị can trong vụ án với một số quan chức đang đương nhiệm để hướng lái dư luận một cách tiêu cực.

 

“Chính trị hóa” vụ án hình sự là thủ đoạn không mới. Bất cứ vụ án nào liên quan đến quan chức bị đưa ra ánh sáng, các “nhà dân chủ” đều ngay lập tức tìm mọi cách để phù phép, tô vẽ vào đó màu sắc chính trị. Dĩ nhiên, vụ án liên quan đến Tập đoàn Phúc Sơn cũng không là ngoại lệ. Trước đó, trong các vụ án liên quan đến Việt Á hay “chuyến bay giải cứu”, các đối tượng xấu cũng thực hiện chống phá bằng thủ đoạn tương tự. Mục đích mà chúng hướng đến là tạo ra những “ma trận thông tin”, đan xen thật - giả để tìm cách hướng lái, tác động, làm lung lay nhận thức, tình cảm của người dân với Đảng.

 

Theo kết quả điều tra bước đầu của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, chỉ riêng 2 dự án tại Vĩnh Phúc, Tập đoàn Phúc Sơn đã gây thiệt hại ngân sách nhà nước 640 tỷ đồng thông qua thủ đoạn bỏ ngoài sổ sách, không kê khai tài chính, trốn thuế. Mở rộng điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra còn phát hiện các hành vi đưa hối lộ, nhận hối lộ, vi phạm quy định về đấu thầu, lợi dụng ảnh hưởng với người khác để trục lợi. Có thể thấy, những sai phạm của Tập đoàn Phúc Sơn không chỉ gây thiệt hại về kinh tế mà còn làm biến dạng hoạt động quản lý nhà nước trên các lĩnh vực. Đây là một trong những vụ án điển hình thể hiện sự móc nối, câu kết giữa các đối tượng phạm tội kinh tế và quan chức trong hệ thống chính quyền. Một vòng xoáy “tiền - quyền” đã được hình thành, biến một doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi cấp huyện, mức độ vừa phải bỗng “vươn mình mạnh mẽ” để trúng nhiều dự án từ Bắc vào Nam. Căn cứ tài liệu, chứng cứ thu thập được, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã khởi tố vụ án, khởi tố các bị can để điều tra, làm rõ hành vi vi phạm. Việc xử lý cán bộ “nhúng chàm” là điều hoàn toàn bình thường, theo đúng tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” và khẳng định tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật. Bởi vậy, chẳng có lý do gì để giới “dân chủ” truyền tai nhau những luận điệu độc hại như nêu trên. Hiện cơ quan chức năng vẫn đang tiến hành các biện pháp điều tra để làm rõ sai phạm. Đồng thời, kêu gọi các đối tượng liên quan trong vụ án khẩn trương đầu thú, tố giác tội phạm và khắc phục hậu quả để được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật. Với sự quyết liệt nêu trên, chắc chắn những người vi phạm sẽ bị đưa ra xử lý đúng người, đúng tội.


Trong nhiều năm qua, các đối tượng xấu luôn lợi dụng việc Đảng ta xử lý đảng viên sai phạm để quy chụp cho rằng “trong Đảng toàn cán bộ suy thoái, tham nhũng”. Tuy nhiên, nếu Đảng chỉ “toàn cán bộ suy thoái, tham nhũng” thì chắc chắn việc xử lý tham nhũng không thể thực hiện mạnh mẽ như hiện nay. Đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực là một cuộc “tự cách mạng” mà Đảng ta đang thực hiện. Trong cuộc “tự cách mạng” này, đối tượng đấu tranh chính là những đảng viên, cán bộ trong nội bộ. Do vậy, để chống tham nhũng thành công cần sự đoàn kết, nhất trí, đồng lòng của đại đa số đảng viên - những người đảng viên chân chính. Việc xử lý cán bộ tham nhũng, tiêu cực là việc làm vô cùng đau đớn, nhưng Đảng ta không còn lựa chọn nào khác. Đảng viên vi phạm về tham nhũng, tiêu cực như những tế bào ung thư, nếu không loại bỏ thì nó sẽ lan truyền, di căn gây ảnh hưởng tới cả cơ thể. Chống tham nhũng là để loại bỏ ra khỏi nội bộ những đảng viên không giữ vững tính Đảng, đã phản bội lời thề khi vào Đảng, đã tự biến mình thành tội đồ của dân tộc.

 

Sinh thời, Lênin đã nhấn mạnh: “Tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay, đều bị tiêu vong vì tự cao tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình và vì sợ sệt không dám nói lên những nhược điểm của mình”. Việc Đảng ta xử lý đảng viên vi phạm cho thấy rõ sự dũng cảm, sẵn sàng đối mặt với những “góc khuất” trong nội bộ. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật”, sẵn sàng nói lên những nhược điểm của chính mình, không ngừng tự rèn luyện, chỉnh đốn Đảng, chắc chắn vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và xã hội sẽ ngày càng được củng cố vững chắc./.

 

Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2024

MVT lại diễn

 Ông Mạc Văn Trang (MVT) hay ai đó trách cứ cái tít trên là xách mé, thiếu lịch sự, không trọng người cao tuổi…, cũng đành vậy. Tuy nhiên, “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”, tít trên chỉ là “nhái”/bắt chước ông MVT mà thôi mà. Bắt chước cách ăn nói xách mé; bắt chước kiểu “khen đểu” của ông trong bài “Tuyên giáo ta tài thật!” phóng lên trang Tiếng Dân ngày 16/3 này.



Nếu cái sự xách mé đó chỉ là sự cố ngôn từ, thì có thể bỏ qua. Nhưng, nghi lắm! Ông MVT học vị học hàm đầy mình sao có thể bất cẩn. Nghĩa là, “chủ kiến” của ông là thế, nhằm đánh giá, nhận định tính chất, công việc mà những người làm tuyên giáo của Cộng sản Việt Nam lâu nay.

Nhưng sai toét. Bài viết trên của ông MVT tuyền những quy kết, áp đặt – điều mà người viết lách tối kỵ.  Nực cười, ông MVT thực hiện hành vi đó khi ông đang uốn nắn đạo đức cho thiên hạ với một thái độ ngạo mạn, kẻ cả, lấy mình làm “gương”, rằng:  “khen – chê đều phải có xúc cảm: “Cái xấu, ác, vô lý hiện ra, mình thấy bức xúc thì phải lên tiếng; cái tốt đẹp làm mình xúc động thì mình khen ngay”. Thậm chí, ông còn to gan chỉ trích, mỉa mai những cơ quan báo chí và nhà báo Việt Nam  chỉ “khen kiểu “báo cáo thành tích”…Khen kiểu đó dễ lắm, không cần tình cảm, xúc cảm… chỉ cần đúng định hướng của Tuyên giáo là OK”.

Không biết gặp những dòng này của vị giáo sư cao niên MVT, cánh báo chí đang tụ nhau ở Hội Báo toàn quốc 2024, tổ chức tại TP.HCM, sẽ nghĩ gì? Họ sẽ ân hận về những gì họ đã viết, đã làm chắc? Hay ân hận về những tuyến bài phản ảnh các hoạt động quyên góp, cứu trợ đồng bào miền Trung bị thiên tai năm nào chẳng hạn? Ân hận về những bài viết về góp phần đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng, trong đó có việc đấu tranh đòi Trung Quốc rút Giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước ta hồi tháng 5/2014, chăng? Ân hận về các bài viết đề cao tinh thần và đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, nêu bật lòng biết ơn những người đã ngã xuống vì Tổ quốc, chăng? Ân hận về việc đã kỳ công thực hiện các phóng sự biểu dương những tấm lòng cao cả, như tuyến bài về “Ngọn lửa Hải An” chăng? Ân hận về việc đã lao vào tâm dịch để thực hiện các phóng sự xúc động thời điểm đại dịch COVID-19? Hoặc nữa, ân hận vì đã thực hiện những bài viết chống tham nhũng góp phần vào ngọn lửa “lò” chống tiêu cực hừng hực trong thời gian qua?…

 Không. Những người làm báo Việt Nam không thế. Không, bởi những tuyến bài đó, cũng như trăm nghìn bài báo khác, được các nhà báo Việt Nam làm nên, viết ra từ trách nhiệm và tấm lòng với Tổ quốc và nhân dân, đồng bào. Viết ra từ tình yêu cái thiện, ghét cái ác. Viết ra từ sự thấu hiểu tự giác trách nhiệm, nghĩa vụ của người cầm bút…

Cho dù còn nhiều hạn chế, khuyết điểm, thậm chí sai sót, nhưng công lao, cống hiến của các nhà báo Việt Nam là không thể phủ nhận, và trong thực tế, đã được nhân dân và xã hội ghi nhận. Nhiều bài viết, như loạt bài “Ngọn lửa Hải An” mà các cơ quan báo chí Việt Nam thực hiện năm 2019, từng tạo nên những tác động tích cực tới mức: Sau câu chuyện hiến giác mạc của bé gái 7 tuổi Hải An (Hà Nội) giúp 2 người sống trong bóng tối nhìn thấy cuộc sống (tháng 2-2018), một làn sóng đăng ký hiến tạng đã lan toả trong cộng đồng với hàng chục ngàn người đăng ký hiến tặng mô, tạng”. Thực tế đó đồng nghĩa những lời lẽ của ông MVT không chỉ thiếu khách quan mà còn xúc phạm nặng nề những người làm báo chân chính trong hệ thống báo chí cách mạng Việt Nam.

Định kiến tới mức cay cú đã khiến ông MVT vi phạm nghiêm trọng chính nguyên tắc tôn trọng sự thật mà lâu nay ông từng nhiều lần ngạo mạn và hợm lĩnh dạy dỗ người khác. Bằng chứng, ông đã xuyên tạc sự thật về ngành tuyên giáo, khi viết rằng: “Chức năng, nhiệm vụ của Tuyên giáo là an ninh tư tưởng, làm sao tuyên truyền, giáo dục cho toàn Đảng, toàn Quân, toàn Dân từ nhi đồng đến các cụ phụ lão nghĩ giống nhau, nói giống nhau theo định hướng của Tuyên giáo là thành công. Còn làm thì Tuyên giáo đâu có chịu trách nhiệm…”.

Thưa ông MVT, thử hỏi, ông tìm đâu ra cái gọi là “chức năng, nhiệm vụ…” kỳ quái đó? Và từ đó, vừa suy diễn, vừa quy chụp một cách thô thiển về cái gọi là “định hướng”, “thành công” của ngành tuyên giáo?

Không dẫn ra được, không trả lời được để chứng minh mình đúng, thì quả tang, ông MVT là người xuyên tạc sự thật. Tự ông “vạch áo cho người xem lưng” nhé.

Trên đã “nhái” cái tít của ông MVT. Kết bài, lại “nhái” cách kết của ông vậy, rằng: “Ôi, cái ông MVT, tài đến thế là cùng!”.

Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2024

Việt Nam luôn bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động

 Ngày 13/3, trang facebook Chân Trời Mới Media đăng status với nội dung: “Việt Nam dự kiến trong năm 2024 sẽ phê chuẩn Công ước 87 của Liên hợp quốc về “quyền tự do lập hội và bảo vệ quyền tổ chức”. Khả năng thành lập công đoàn độc lập cho người lao động sau khi Công ước 87 được phê chuẩn sẽ ra sao?”. Đây là chiêu trò “lập lờ đánh lận con đen”, kêu gọi, kích động thành lập các tổ chức độc lập để hoạt động chống phá Việt Nam.

Cần khẳng định rằng, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng phát triển con người nói chung, giai cấp công nhân, người lao động nói riêng, coi đây là nhiệm vụ trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trong suốt những năm qua, Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị luôn quan tâm giải quyết việc làm, hạn chế, giảm tối đa số công nhân, người lao động thiếu việc làm và thất nghiệp. Đồng thời, thực hiện tốt chính sách và pháp luật về lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hộ lao động, chăm sóc, phục hồi sức khoẻ đối với công nhân và chính sách ưu đãi nhà ở đối với công nhân, người lao động.

Đặc biệt, Việt Nam có hệ thống tổ chức công đoàn các cấp, cao nhất là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam để đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, tập thể công nhân, người lao động. Tổ chức công đoàn luôn đổi mới tổ chức, hoạt động phù hợp với cơ cấu lao động, nhu cầu, nguyện vọng của công nhân, yêu cầu hội nhập quốc tế và phát huy tốt vai trò, nhiệm vụ được giao, có nhiều hoạt động hiệu quả, mang lại lợi ích cho người lao động. Đồng thời, luôn phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền các cấp, các tổ chức, người sử dụng lao động,… thực hiện tốt nhiệm vụ đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp; nhất là, trong đại dịch Covid-19, các dịp lễ, tết, giúp đỡ đoàn viên công đoàn, người lao động có hoàn cảnh khó khăn, v.v. Thông qua đó đã góp phần từng bước cải thiện, nâng cao thu nhập, đời sống cho công nhân, người lao động. Và, tổ chức công đoàn đã thực sự phát huy tốt vai trò là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với công nhân, người lao động, tích cực tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Theo kế hoạch, trong thời gian tới Việt Nam sẽ chính thức phê chuẩn Công ước 87 của Liên hợp quốc. Điều này càng khẳng định cam kết của Việt Nam tiếp tục bảo vệ tốt hơn nữa các quyền lao động cơ bản và tuân thủ theo các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Do đó, ở Việt Nam sẽ không cần phải thành lập cái gọi là “công đoàn độc lập” như trang facebook Chân Trời Mới Media đặt câu hỏi.

Thực chất, đây là âm mưu nham hiểm của các thế lực thù địch, phản động. Chúng luôn tìm mọi cách núp bóng dưới danh nghĩa thành lập cái gọi là “công đoàn độc lập”, tổ chức “xã hội dân sự”,… để chống phá, kích động biểu tình, tiến tới tạo ra “cách mạng màu” như đã từng xảy ra ở một số nước trước đây, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thay đổi chế độ chính trị mà thôi. Vì thế, chúng ta phải hết sức cảnh giác, tỉnh táo để không bị mắc mưu./.

Thứ Ba, 12 tháng 3, 2024

Nỗ lực kiên cường, nâng tầm vị thế và tương lai đất nước

Ngày 01/3/2024 trang facebook Việt Tân-Hạnh Nhân với tựa đề Hứa thật nhiều: “Ngạo nghễ cả quá khứ và tương lai nhưng hiện tại thì quá ảm đạm. Chính những kẻ đề ra mục tiêu còn chẳng tin là làm được, thì lấy ai tin?…”. Những luận điệu nêu trên là phi khoa học, không có cơ sở về lý luận và thực tiễn, gây tâm lý hoài nghi, dao động, làm giảm sút niềm tin trong nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nên cần phải bị bác bỏ.



Như chúng ta thấy, mục tiêu, lý tưởng, lợi ích của Đảng luôn thống nhất với mục tiêu, lý tưởng, lợi ích của toàn thể dân tộc Việt Nam, xây dựng một xã hội Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, thịnh vượng. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu cụ thể đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Qua hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên tất cả lĩnh vực. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: Kinh tế nước ta tiếp tục là điểm sáng, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát, nợ công, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Tăng trưởng kinh tế năm 2021 đạt 2,56%, trong khi nhiều nền kinh tế trên thế giới tăng trưởng âm; tăng trưởng kinh tế năm 2022 đạt 8,02%, cao hơn nhiều so với kế hoạch 6-6,5%. Năm 2023 đạt hơn 5%, là mức cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới; lần đầu tiên GDP của nước ta đạt mức 430 tỷ đô la Mỹ (USD), đứng thứ 3 trong ASEAN và thuộc nhóm 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài. Về đối ngoại, từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến nay nước ta đã mở rộng, làm sâu sắc thêm quan hệ ngoại giao với 193 nước, trong đó có 3 nước quan hệ đặc biệt, 6 nước đối tác chiến lược toàn diện, 12 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện. Đặc biệt là, nước ta hiện đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hoặc đối tác chiến lược với tất cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, mở rộng quan hệ kinh tế – thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều này cho thấy, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế qua nhìn nhận và đánh giá của các tổ chức, cá nhân, những học giả, nhà nhiên cứu có uy tín trên thế giới.

(1) Theo Ngân hàng Thế giới, chỉ 10 năm trước, GDP bình quân đầu người Việt Nam là khoảng 2.190 USD và hiện đã tăng gần gấp đôi lên 4.100 USD. Việt Nam đang phát triển nhanh chóng và hầu hết người dân đều được hưởng lợi.

(2) Giám đốc quốc gia của Cơ quan Phát triển Pháp tại Việt Nam Herve Conan đánh giá rất tích cực về nền kinh tế Việt Nam: “Đất nước các bạn đã thành công trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng ấn tượng bất chấp tình trạng lạm phát cao đang gây ảnh hưởng tới nhiều nền kinh tế trên thế giới. Trong đánh giá định kỳ nền kinh tế vĩ mô 3 năm một lần được tiến hành từ đầu năm 2023, Cơ quan Phát triển Pháp ghi nhận những thành công đáng khích lệ của Việt Nam trong việc duy trì ổn định chính trị – xã hội, triển khai chính sách kinh tế thận trọng nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế. Quy mô thị trường nội địa với 100 triệu dân cũng là lợi thế quan trọng. Sự năng động của sản xuất kinh tế quốc gia vẫn được duy trì bất chấp những năm chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19”.

(3) Ông Yasuhiro Nojima, Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam – Nhật Bản khẳng định, Việt Nam là một quốc gia đi đầu trong việc giảm nghèo, thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển ổn định và hài hòa hơn; đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân trên mọi miền đất nước được cải thiện và nâng lên. Sức mạnh kinh tế của Việt Nam ngày càng lớn, và nếu xét về tiềm năng, theo ông, có thể nói Việt Nam là nước tỏa sáng nhất trong các nước ASEAN.

(4) Theo số liệu của Liên minh châu Âu (EU), sau 3 năm thực thi Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU (EVFTA), kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng gần 50%, đưa Việt Nam trở thành đối tác thương mại đứng đầu ASEAN đối với EU, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư ASEAN và thứ 40 của thế giới, với quy mô thương mại quốc tế nằm trong TOP 20 của thế giới.

(5) Mới đây nhất Phân tích của Công ty nghiên cứu tài sản toàn cầu New World Wealth dự báo, Việt Nam sẽ chứng kiến mức tăng trưởng tài sản lên tới 125% trong 10 năm tới. Đây là mức tăng trưởng tài sản lớn nhất so với bất kỳ quốc gia nào xét về GDP bình quân đầu người và số lượng triệu phú. Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) cho biết, Việt Nam đã chứng kiến 3 thập kỷ tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm ở mức 7% và nằm trong nhóm các nước có thu nhập trung bình. Với nhiều hiệp định thương mại tự do được ký kết, đất nước đã định vị thành công trong chuỗi giá trị toàn cầu.

(6) Trung tâm tư vấn CEBR (Anh) đánh giá, và dự báo, quy mô nền kinh tế Việt Nam dự kiến ở vị trí 33 trên bảng xếp hạng WELT, tăng 1 bậc so với báo cáo năm 2023, với quy mô GDP theo giá hiện hành đạt 462 tỷ USD. Việt Nam liên tục duy trì vị trí dẫn đầu trong nhóm các quốc gia thu nhập trung bình thấp. Đáng chú ý, báo cáo của CEBR đánh giá, thứ hạng quy mô kinh tế của Việt Nam có thể tăng nhanh trong tương lai. Việt Nam sẽ vươn lên vị trí 24 vào năm 2033, với quy mô kinh tế đạt 1.050 tỷ USD. Đến năm 2038, Việt Nam sẽ vươn lên vị trí thứ 21, với quy mô GDP dự kiến đạt 1.559 tỷ USD. Theo CEBR, với ưu thế dân số đông và trẻ hiện tại, Việt Nam có cơ hội vượt qua gần hết các nước trong ASEAN về kinh tế như Singapore, Thái Lan hay Malaysia, và trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045.

Hiện nay tình hình thế giới phức tạp và biến động khôn lường, lợi ích của đất nước phải là tối thượng thiêng liêng, với phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Do đó, mọi đối sách của Đảng không chỉ kết tinh và thể hiện bản lĩnh chính trị, sự độc lập, tự chủ, uyển chuyển, linh hoạt, hiệu quả mà chủ động bảo vệ vị thế, lợi ích chiến lược không ngừng nâng tầm sức mạnh và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Phủ nhận hoàn toàn luận điệu xuyên tạc sai trái về cả quá khứ, hiện tại và tương lai đất nước ta. Chúng ta tin tưởng rằng Dân tộc Việt Nam nhất định tiếp tục thành công, vì một Việt Nam thịnh vượng!

Thứ Hai, 11 tháng 3, 2024

Ủy ban Bảo vệ Quyền làm người Việt Nam (VCHR) - Một sự đánh tráo trơ trẽn

 Trong dịp kỷ niệm ngày Quốc tế Phụ nữ (8/3), trên một số trang mạng phản động, đài báo thiếu thiện chí với Việt nam đưa tin: Ủy ban Bảo vệ Quyền làm người Việt Nam (VCHR) có trụ sở ở Pháp, kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do các “nữ tù nhân lương tâm” ở Việt Nam.

Cần khẳng định ngay rằng tại Việt Nam không có cái gọi là tù nhân lương tâm. Nhằm bóp méo, xuyên tạc tình hình nhân quyền tại Việt Nam, đã từ lâu, các thế lực phản động, thù địch luôn tìm cách kích động, cổ súy các đối tượng vi phạm pháp luật, bất mãn, cơ hội chính trị. Đáng lưu ý, nhằm biến các đối tượng vi phạm pháp luật thành những công dân dũng cảm đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền, hòng đánh lừa dư luận trong nước và quốc tế, vu cáo Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, các thế lực thù địch, phản động dành cho những đối tượng này cái tên khá mỹ miều là “tù nhân lương tâm”. Đây là một khái niệm hết sức mập mờ được các thế lực thù địch, phản động tạo ra nhằm đánh lạc hướng dư luận, khiến dư luận khó có thể phân biệt đâu là những người hoạt động vì nhân quyền đích thực, đâu là những đối tượng đột lốt “dân chủ”, “nhân quyền” nhằm mục đích gây rối, chống phá. Thực chất đó vẫn là chiêu trò đánh tráo khái niệm nhằm cổ súy cho những kẻ đột lốt “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá đất nước, vi phạm pháp luật bị kết án và phải chấp hành hình phạt tù mà thôi.

Muốn biết thực, hư của cái gọi là “tù nhân lương tâm” chúng ta hãy xem qua một gương mặt trong các “nữ tù nhân lương tâm” mà VCHR muốn ám chỉ đó là Phạm Thị Đoan Trang. Đối tượng này đã có hành vi làm, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, bài viết có nội dung nhằm chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trả lời phỏng vấn truyền thông nước ngoài với nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước Việt Nam cũng như “phỉ báng chính quyền nhân dân”, tuyên truyền với luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân, thông tin xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam… Với những chứng cứ hết sức rõ ràng, Phạm Thị Đoan Trang đã bị các cơ quan bảo vệ pháp luật của Việt Nam khởi tố, bắt tạm giam và đưa ra xét xử về các hành vi phạm tội làm tàng trữ, phát tán thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại điều 117 Bộ luật Hình sự 2015. Việc Phạm Thị Đoan Trang bị xử lý là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế. Như vậy, thực chất Phạm Thị Đoan Trang cũng như những đối tượng mà VCHR đề cập là những kẻ đã vi phạm pháp luật bị cơ quan chức năng truy tố, xử lý theo đúng quy định.

Không chỉ tại Việt Nam mà ở mọi quốc gia trên thế giới, rất nhiều cá nhân đã bị bắt giữ, đưa ra xét xử và phạt tù vì những tội danh như làm tổn hại tới an ninh quốc gia, tung tin sai sự thật gây hoang mang trong dư luận, gây nguy hiểm cho người dân… Việt Nam luôn phấn đấu để bảo vệ và phát triển quyền con người. Đi kèm với đó Việt Nam cũng kiên quyết đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng dân chủ, nhân quyền để chống pháp đất nước. Chiêu trò đánh tráo khái niệm nhằm cổ súy cho những kẻ đột lốt “dân chủ”, “nhân quyền”, lợi dụng dân chủ, nhân quyền để vi phạm pháp luật bị kết án và phải chấp hành hình phạt tù với cụm từ “tù nhân lương tâm” sẽ không bao giờ đạt được mục đích.

Không chỉ bợ đỡ, cổ súy cho những hành vi phạm pháp của các đối tượng mà CVHR còn lớn tiếng kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do các “nữ tù nhân lương tâm”. Việc làm của CVHR đã vi phạm nghiêm trọng công ước và nguyên tắc quốc tế, trắng trợn can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Việt Nam kiên quyết phản đối, bác bỏ hành động vô lối trên của CVHR.

Chủ Nhật, 10 tháng 3, 2024

Đừng xuyên tạc việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh!

Trên trang Việt tân có đoạn viết “Học tập và làm theo tấm gương của “ai đó” hai cựu công an và nữ nhân viên thuê phòng nghỉ rồi cùng bay lắc”.

Khi nói đến việc học tập và làm theo, chúng ta ai cũng hiểu đó là việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Năm 2003, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 23-CT/TW về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới. Năm 2006, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 06 về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Năm 2011, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập, làm theo với Chỉ thị 03-CT/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Năm 2016, Chỉ thị 05-CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” tiếp tục được ban hành. Năm 2021, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 01-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đến nay, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục được triển khai thực hiện rộng rãi ở các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được triển khai rộng rãi trong suốt cả quá trình như vậy là bởi nhiều lí do:

 Thứ nhất: Ai cũng biết cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh hi sinh cho đất nước, cho dân tộc. Người đã bôn ba khắp năm châu, bốn biển, hi sinh cả hạnh phúc riêng tư để tìm cho ra con đường giải phóng dân tộc, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc, giành lại chủ quyền đất nước – với vai trò đó, Người là một vị lãnh tụ vĩ đại, là tấm gướng sáng ngời tận trung với nước.

Thứ hai, ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, bên cạnh hình ảnh một vị lãnh tụ hết lòng, hết sức vì quốc gia, dân tộc, còn là hình ảnh của một “người cha”, “người bác”, “người anh” vô cùng gần gũi. Có thể thấy rằng dù đi tới bất kì đâu, gặp bất kì ai, Người đều ân cần hỏi han, quan tâm từ những điều nhỏ nhất. Người yêu thương hết thảy từ người già, phụ nữ đến các em thơ; từ chiến sĩ, đồng bào đến các anh chị công nhân, các cháu học sinh; từ chim muông, cây cỏ…. Ở Người luôn toát lên sự ấm áp, ân cần, quan tâm – đó là một vị cha già của dân tộc, là tấm gương luôn tận hiếu với dân.

Thứ ba, nhìn lại cả cuộc đời của Bác, chúng ta thấy toát lên sự giản dị vô cùng. Dù là ở cương vị cao nhất của đất nước, nhưng người vẫn ở ngôi nhà sàn đơn sơ, với bộ quàn áo kaki đã bạc màu, đôi dép cao su mòn đế. Trong sinh hoạt, ăn uống Người cũng giản dị, đời thường đến vô cùng. Đi đâu, làm gì cũng hết sức bình thường và luôn nghĩ cho người khác – đó chính là phong cách, phẩm chất đạo đức cao quý của người cách mạng.

Thứ tư, những lời dạy, những bài viết, những vần thơ, những tác phẩm của Người để lại là một kho tàng quý báu, chứa đựng trong đó là những bài học vô cùng sâu sắc, là những tình cảm chứa chan dành cho các tầng lớp nhân dân, là lòng yêu nước vô bờ.

Có lẽ, dùng bao nhiêu ngôn từ cũng không thể nói hết được về Người. Chẳng thế mà không riêng gì nhân dân Việt Nam mà cả bạn bè quốc tế cũng luôn dành cho Người những tình cảm trân quý và sự kính trọng vô cùng. Tư tưởng và đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chính là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hoá của nhân loại. Đó là tài sản tinh thần vô giá, là tấm gương sáng ngời! Chính vì thế mà mỗi chúng ta cần học tập và noi theo.

Song chúng ta cũng cần nhận thức rõ ở đây, việc học tập, làm theo Bác là để mỗi người, mỗi cán bộ, đảng viên tự soi, tự răn mình để hết lòng, hết sực phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đồng thời cũng là để cho các thế hệ hôm nay và mai sau ngày càng được bồi đắp thêm tâm hồn, tình cảm và trách nhiệm thực hiện tốt hơn chức trách, nhiệm vụ của bản thân, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh, góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển phồn vinh, hạnh phúc. Trải qua cả quá trình lịch sử, đất nước ta ngày càng phát triển, vị thế ngày càng được nâng cao, nhân dân ta ngày càng có cuộc sống khấm khá hơn, nhưng vẫn cần không ngừng học tập, phấn đấu để hòa nhập với quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Vì thế học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phải được coi như công việc thường xuyên hàng ngày của mỗi người, của các cấp, các ngành, chứ không phải như những kẻ xấu cố tình xuyên tạc rằng cán bộ, đảng viên hiện nay xấu xa quá nên phải ra sức kêu gọi học tập và làm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Còn việc 2 cựu cán bộ công an tham gia tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là việc của cá nhân. Là cán bộ ngành công an mà không tu dưỡng, rèn luyện, không giữ vững được phẩm chất, đạo đức của người cán bộ đảng viên vì thế họ đã phải trả giá với bản án tại phiên tòa sơ thẩm với 7 năm và 6 năm 6 tháng tù. Pháp luật Việt Nam công bằng với tất cả mọi người. Trong Đảng cũng như trong các cơ quan Nhà nước đều có những quy định, nội quy rất rõ ràng, ai vi phạm thì sẽ bị xử lý theo quy định. Vì thế, không thể lấy việc xấu của một vài cá nhân để quy chụp cho tất cả. Và càng không thể lấy việc của 2 cựu công an này để xuyên tạc việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cái cách quy chụp, xuyên tạc như Việt tân nói là điều không thể chấp nhận!

Tùng Giang

Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2024

Lại nói càn

 Mới đây, “Baotiengdan” đăng tải bài viết của Nguyễn Đình Cống với tựa đề: “Luận bàn về độc lập tự do”, đưa ra nhiều luận điệu vô căn cứ, trái sự thật hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, tạo sự mơ hồ, hoài nghi về con đường độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân Việt Nam đã lựa chọn.


Trong bài viết, Nguyễn Đình Cống đưa ra luận điệu cho rằng: Độc lập không phải là mục đích tối cao của dân tộc mà chỉ là mục tiêu ngắn hạn của cộng sản để thiết lập chính quyền cho họ. Đây là luận điệu cố tình xuyên tạc trắng trợn mục tiêu, lý tưởng và sứ mệnh vẻ vang của Đảng ta, bởi lẽ. Từ cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, nhân dân Việt Nam với truyền thống yêu nước nồng nàn đã liên tiếp đứng lên quyết giành cho được tự do, độc lập song đều bị thất bại vì không có một đường lối đúng đắn. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03/02/1930) với đường lối đúng đắn lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc là làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dân tộc Việt Nam được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đường lối đúng đắn của Đảng được các giai cấp, tầng lớp hưởng ứng và ủng hộ đã làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Cách mạng Tháng Tám đã xóa bỏ chế độ thuộc địa gần một thế kỷ, chấm dứt chế độ phong kiến hàng nghìn năm, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước cách mạng kiểu mới ở Việt Nam, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Khi thực dân Pháp phát động chiến tranh xâm lược nước ta lần nữa (12/1946), nền độc lập non trẻ đứng trước thách thức sống còn, Đảng và cả dân tộc ta đã: quyết tâm thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ, quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững nền tự do, độc lập ấy. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và sau này là chiến tranh xâm lược ở biên giới Tây – Nam và biên giới phía Bắc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước đánh thắng chiến tranh xâm lược bảo vệ vững chắc chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng toàn diện dẫn tới sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Đảng ta đã kịp thời đề ra đường lối đổi mới, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đó là sự thực, không phải như Nguyễn Đình Cống “lu loa nói càn” rằng: Đảng đang “đẩy nhân dân vào con đường không lối thoát”, trái lại dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đang từng bước hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ một nước nghèo nàn lạc hậu, lại chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 giá trị nền kinh tế mới đạt 6,3 tỷ đô la/năm thì đến năm 2023 đã đạt tới 434 tỷ đô la, nằm trong nhóm 40 quốc gia đứng đầu thế giới. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, nếu năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 đô la/năm thì đến năm 2023 đạt khoảng 4.284 đô la/năm (tương đương 101,9 triệu đồng/năm). Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 2,93% năm 2023 (theo chuẩn nghèo đa chiều).

Thực tiễn gần 94 năm qua khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành và làm hết sức mình để bảo vệ giữ vững độc lập dân tộc, bảo vệ lợi ích quốc gia, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đồng thời, không ngừng củng cố và nâng cao sức mạnh, vị thế, uy tín của đất nước Việt Nam trên trường quốc tế.

Vậy mà, Nguyễn Đình Cống lại bất chấp đúng, sai cố tình phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận những thành tựu mà đất nước và nhân dân ta đã đạt được, đi ngược lại lợi ích của dân tộc Việt Nam. Y đích thị là đồ “hại nước hại dân”./.

Thứ Năm, 7 tháng 3, 2024

Lại một sự trơ trẽn không hề nhẹ!

 Ngày 05/3, trang fanfage Việt Tân đăng bài: “Hai tháng đầu năm, hơn 23.000 người Việt xuất khẩu lao động” xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đưa người đi lao động ở nước ngoài rằng: “chưa thấy nước nào lại tự hào về số dân xuất khẩu lao động cao như ở Việt Nam. Nó được chính quyền xem như một thành tích đáng ngưỡng mộ, con số xuất khẩu càng cao thì càng được ca ngợi”; trơ trẽn hơn họ còn vu cáo: đây là hoạt động tổ chức “buôn người” quy mô lớn của chính quyền nhằm kiếm tiền môi giới và thu ngoại tệ.


          Cần khẳng định: đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là hoạt động kinh tế đối ngoại quan trọng đối với mỗi quốc gia, nhất là với các nước đang phát triển như Việt Nam, nhằm giải quyết việc làm, tạo thu nhập, phân công lại lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng nguồn thu ngoại tệ và góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đây là hoạt động mang lại lợi ích cho chính người lao động, cộng đồng và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Dân số Việt Nam hiện đang ở trong giai đoạn dân số vàng, đây là cơ hội để chúng ta tận dụng lợi thế, đề ra các chính sách về phát triển nguồn nhân lực để tăng trưởng kinh tế. Người Việt Nam nói chung với đặc tính là cần cù, thông minh và năng động. Tuy nhiên, phần lớn người lao động lại gắn với ngành nghề nông nghiệp truyền thống, thu nhập thấp, hạn chế về trình độ học vấn và chuyên môn, thiếu nhiều kỹ năng làm việc trong môi trường cạnh tranh quốc tế. Do đó, xuất khẩu lao động như một cánh cửa mở ra cơ hội cho người lao động phổ thông bước ra thế giới, tiếp cận và hoàn thiện kỹ năng làm việc trong môi trường hội nhập quốc tế và quan trọng hơn hết, là tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống.

Hiện nay, Việt Nam đang có khoảng 650.000 lao động đang làm việc tại 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; nhờ làm việc ở nước ngoài, người lao động Việt Nam có nhiều cơ hội tìm kiếm nguồn thu nhập tốt. Theo thông tin từ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, được biết: ước tính cả năm 2023, số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng khoảng 155.000 người, là số lượng cao nhất từ trước đến nay và tăng 8,55% so với năm 2022. Bình quân mỗi năm, khoảng 120.000 đến 143.000 lao động ra nước ngoài làm việc, kiều hối từ lực lượng lao động này gửi về nước đạt 3,5 - 4 tỉ USD, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Trung bình mỗi năm, số lao động Việt Nam đi nước ngoài chiếm xấp xỉ 10% chỉ tiêu việc làm cần giải quyết. Trung bình 03 năm làm việc tại nước ngoài, người lao động có thể tích lũy được từ 500 - 700 triệu đồng. Tính chung, người lao động đi làm việc ở nước ngoài thu nhập bình quân cao hơn từ 5 đến 8 lần so với thu nhập ở trong nước. Với số tiền tích lũy được, nhiều gia đình đã vươn lên thoát nghèo, người lao động sau khi về nước có khả năng đầu tư vào sản xuất kinh doanh, phát triển sản xuất, quan trọng hơn là tay nghề, trình độ của họ cũng trở thành một nguồn lực quý. Đây là nguồn vốn lớn bổ sung vào đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân trong nước. Dòng tiền của người Việt ở nước ngoài gửi về cho người thân, đảm bảo đời sống của nhiều gia đình, hỗ trợ an sinh xã hội trong nước. Mới đây, Báo cáo về Di trú và Phát triển do Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổ chức Hợp tác quốc tế về người di cư (KNOMAD) cho biết: lượng kiều hối về Việt Nam thường xuyên đạt trên 10 tỉ USD/năm kể từ năm 2010 đến nay. Đặc biệt, năm 2023 vừa qua, Việt Nam đã thu hút được khoảng từ 14 - 15 tỉ USD và nằm trong tốp 3 quốc gia nhận kiều hối nhiều nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tốp 10 quốc gia trên thế giới. Đây là một tín hiệu tích cực về nguồn lực tài chính, giúp Việt Nam có thể bù đắp, giảm sự ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đất nước.

Cùng với đó, những lợi ích từ xuất khẩu lao động còn có ý nghĩa quan trọng về đảm bảo an ninh chính trị, trật tự xã hội, góp phần giải quyết việc làm cho người dân - một trong những thách thức lớn với một đất nước đang phát triển như Việt Nam. Đồng thời, đây cũng là giải pháp để quốc gia thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhờ những kiến thức, kỹ năng, phong cách lao động mà người lao động tiếp thụ được trong quá trình tham gia xuất khẩu lao động; nhất là, những người làm việc trong các ngành công nghệ cao, như công nghiệp điện tử, công nghiệp ô tô, v.v.

Như vậy, xuất khẩu lao động thực sự là chủ trương, chính sách mang lại lợi ích kép “ích nước, lợi nhà”, không phải chỉ riêng Việt Nam đang thực hiện mà nhiều quốc gia đang phát triển trên thế giới cũng đang tăng cường thực hiện; thậm chí có quốc gia còn xác định xuất khẩu lao động trở thành động lực quan trọng để phát triển đất nước, như:  Ấn Độ, Mexico, Trung Quốc, Philippines, v.v. Vì lẽ đó, Việt Tân rêu rao: “đây là hoạt động tổ chức “buôn người” quy mô lớn của chính quyền” là giọng điệu xuyên tạc trơ trẽn hòng bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Đảng và Nhà nước ta. Do đó, cần lên án và đấu tranh bác bỏ./.

Thứ Tư, 6 tháng 3, 2024

Chống tham nhũng, động lực củng cố, xây dựng Đảng

 Trong khi cuộc chiến chống tham nhũng ở Việt Nam đã và đang được đông đảo cán bộ, nhân dân đồng tình, ủng hộ, thì đó đây xuất hiện những lời cảnh tỉnh lạc lõng, rằng “tăng cường chống tham nhũng có thể khiến người dân quan tâm hơn đến chính trị”(?!) Ô hay, hiện tượng ấy thể hiện sự chuyển biến đáng mừng chứ; vì trên thực chất, chống tham nhũng để bảo đảm chế độ chính trị ở Việt Nam đứng vững trước những con sâu mọt đang câu kết với nhau vì “lợi ích nhóm” để chế độ này tự sụp đổ từ bên trong. Một luận điểm kỳ khôi nữa là họ cho rằng “sự quan tâm của dân thường đối với chính trị là, trái với ý định của Đảng là muốn người dân thụ động về chính trị”(?) Rõ ràng, với luận điểm này, họ đã “lập lờ đánh lận con đen”, bởi lẽ, trình độ dân chúng ở Việt Nam đang ngày càng quan tâm hơn đến chính trị vì chế độ chính trị – nói rộng ra là chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và dẫn dắt, chỉ nhằm mục đích đem lại lợi ích cho số đông, do đó Đảng cầm quyền hợp sức cùng nhân dân kiên quyết chống lại bè nhóm lợi dụng chức quyền để vơ vét của cải, tài sản của Nhà nước và nhân dân. Vậy thì sự quan tâm ấy của nhân dân đối với chính trị là biểu hiện đáng cổ suý, sao lại gọi là “nguy cơ đáng báo động”?!

Hãy xem cách lập luận nhập nhằng, đánh tráo sự thật trên trang Thediplomat.com (Mỹ) ngày 26/2 vừa qua chung quanh việc chống tham nhũng ở Việt Nam, một mặt họ công nhận “chống tham nhũng được người dân hoan nghênh và giúp tăng thêm niềm tin vào ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam”, nhưng mặt khác, họ lại lưu ý chúng ta cái gọi là “3 nguy cơ” khi đẩy mạnh chống tham nhũng:

Thứ nhất, tăng cường chiến dịch chống tham nhũng có thể khiến người dân quan tâm hơn đến chính trị. Trong cuốn sách: “Hai logic của sự cai trị chuyên quyền”, tác giả Johannes Gerschewski lập luận một cách thuyết phục rằng, tại Việt Nam đã hình thành một khế ước xã hội có đi có lại giữa chế độ và người dân. Trong khế ước này, sự hài lòng về kinh tế được đánh đổi lấy sự công nhận về mặt chính trị. Khi nhu cầu kinh tế được đáp ứng, người dân mặc nhiên “thụ động, thờ ơ và phớt lờ” chính trị. Trong khi đó, điều ngạc nhiên là Đảng lại cho phép thảo luận công khai về các vụ tham nhũng. Điều này bất ngờ thu hút sự quan tâm của dân thường đối với chính trị, trái với ý định của Đảng là muốn người dân thụ động về chính trị.

Một hậu quả nghiêm trọng nữa khi kích thích người dân quan tâm đến vấn đề tham nhũng là có thể khiến người dân chú ý đến các vấn đề khác mà chế độ muốn che đậy, đồng thời thúc đẩy người dân tò mò tìm hiểu về chính trị. Một khi sự hiếu kỳ về chính trị được khơi dậy, chính quyền sẽ khó có thể ngăn chặn hoặc đoán định được chiều hướng trong tương lai. Khi can dự sâu hơn trong việc phát hiện hoặc thảo luận về vấn đề tham nhũng, người dân có thể tăng nhận thức về các hoạt động của chính phủ và bắt đầu chất vấn các vấn đề khác trong cách quản trị, qua đó có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường cho chế độ. Khi tham nhũng trở thành chủ đề thảo luận sôi nổi, điều này có thể thổi bùng sự bất mãn và thách thức thức tính chính danh của Đảng.

Thứ hai, chiến dịch chống tham nhũng có thể vô tình phơi bày trước người dân sự chia rẽ trong giới tinh hoa chính trị. Điều đáng ngạc nhiên là, những nỗ lực chống tham nhũng mới đây đã có bước chuyển biến chưa từng có khi nhằm trực tiếp vào các quan chức cấp cao nhất ở cấp trung ương. Việc người dân cho rằng “trung ương có sự chia rẽ” có thể gây nguy hiểm cho Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh bên ngoài đầy biến động, vì có khả năng làm gia tăng sự bất mãn của công chúng, chẳng hạn như sự suy thoái kinh tế và thiên tai.

Thứ ba, chiến dịch chống tham nhũng tập trung vào các vụ tham nhũng riêng lẻ mà không giải quyết vấn đề mang tính cấu trúc, dung dưỡng cho nạn tham nhũng trong hệ thống. Chiến dịch chống tham nhũng nhằm chuyển sự chú ý của người dân ra khỏi những vấn nạn mang tính hệ thống, củng cố quan điểm cho rằng các chính sách và sự lãnh đạo của chế độ về cơ bản là đúng đắn và rằng tham nhũng chỉ là hệ quả của sự “suy thoái về tư tưởng và đạo đức” của một số đảng viên. Tuy nhiên, đây có thể là con dao hai lưỡi. Khi không thừa nhận hoặc không can thiệp vào những căn nguyên chính gây ra nạn tham nhũng (như việc thiếu trách nhiệm giải trình và tính minh bạch trong hệ thống), điều đó có thể khiến người dân vỡ mộng theo thời gian. Cuối cùng dân chúng nhận ra rằng tham nhũng đã ăn sâu vào chế độ.

Đến đây, người đọc dễ nhận ra ý đồ sâu xa của tác giả bài báo là muốn dùng cái gọi là sự “phân tích khoa học và thực tiễn” mang “tính khách quan” nhằm mục đích làm phân tâm xã hội, buộc Việt Nam từ bỏ chủ trương kiên quyết và kiên trì chống tham nhũng. Điều ấy là ảo tưởng! ./.