Ngày 20/01/2025 vừa qua, trên Trang Tiếng Dân News có đăng bài viết của Trương Nhân Tuấn với tiêu đề “Nếu ông có đủ can đảm để nhìn nhận cái sai của XHCN và từ bỏ nó…”. Trong bài viết, Trương Nhân Tuấn cho rằng “Việt Nam đã “thất bại toàn tập””. Đây là nhận định của kẻ vong ân, phản quốc. Cộng đồng mạng trong nước không lạ gì bút danh Trương Nhân Tuấn (tên thật là Ngô Quốc Dũng) sinh năm 1956 tại Bạc Liêu. Năm 1980 Trương Nhân Tuấn sang Pháp, hiện tại cư ngụ tại Marseille. Cũng như các “con rối” lưu vong chống phá đất nước khác, Trương Nhân Tuấn thường viết bài phát tán nhiều thông tin sai lệch, công khai kích động chống phá Việt Nam.
Trước năm 1945, kinh tế nước ta là một nền nông nghiệp lạc hậu. Hầu hết ruộng đất nằm trong tay địa chủ, thực dân; Sản xuất công nghiệp còn rất sơ khai. Cả nước chỉ có 200 xí nghiệp, với 90 nghìn công nhân, chủ yếu phục vụ việc vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạt của thực dân. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chưa được bao lâu, thì đất nước lại phải trải qua cuộc kháng chiến 9 năm, nền kinh tế lại bị tàn phá nặng nề. Hòa bình được lập lại, nhưng đất nước ta lại bị chia cắt làm 2 miền và trải qua gần 20 năm chiến tranh, mãi đến năm 1976 mới thống nhất. Việc Mỹ sử dụng chất độc hóa học đã cướp đi sự sống và quyền sống bình thường của gần 5 triệu người Việt Nam; tàn phá môi trường, hủy diệt sinh thái… Việt Nam, từ nước nghèo nhất sau khi độc lập, đã vươn lên thành một trong những nền kinh tế năng động nhất nhóm thu nhập trung bình.
Bước vào tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế với “hành trang” là một nền sản xuất lạc hậu, khép kín. Dẫu vậy, sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình với một nền kinh tế thị trường năng động, hội nhập mạnh mẽ, kinh tế tăng trưởng khá cao, liên tục và bao trùm, bảo đảm mọi người dân được hưởng lợi từ quá trình phát triển.
Cụ thể: Tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao. Sau giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%. Giai đoạn 1996-2000, tốc độ tăng GDP đạt 7%. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, với sự điều hành quyết liệt và quyết tâm cao của Chính phủ, Việt Nam đã từng bước đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, biểu hiện ở việc tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt mức 6,8%, đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân 6,5% đến 7% của kế hoạch 5 năm 2016-2020. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19 nhưng nền kinh tế vẫn tăng trưởng gần 3%, là một trong những nước hiếm hoi có tăng trưởng dương trong khu vực và trên thế giới. Quy mô nền kinh tế được mở rộng đáng kể, GDP đạt khoảng 262 tỷ USD vào năm 2019, tăng 18 lần so với năm đầu đổi mới, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 2.800 USD/người và thuộc các nước có mức thu nhập trung bình trên thế giới. Chất lượng tăng trưởng được nâng cao, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 – 2015 lên 5,8%/năm giai đoạn 2016 – 2020, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) bình quân 5 năm 2016 – 2020 đạt khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30 đến 35%).Tỷ lệ lạm phát dần được kiểm soát từ mức ba chữ số những năm đầu của thời kỳ đổi mới xuống mức mục tiêu 4% trong suốt giai đoạn 2016 – 2020.
Cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng tích cực và phù hợp hơn với mô hình tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế dịch chuyển theo hướng hiện đại, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh, trở thành động lực tăng trưởng chính, trong khi tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống. Nhiều động lực tăng trưởng mới được xây dựng bên cạnh khu vực DN nhà nước và khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, số DN thành lập mới tăng nhanh cả về số lượng và vốn đăng ký, làn sóng khởi nghiệp sáng tạo lan tỏa rộng với nhiều mô hình kinh doanh độc đáo, có hiệu quả. Hệ thống hạ tầng quốc gia được tập trung nguồn lực xây dựng một cách đồng bộ, hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông và hạ tầng đô thị lớn. Bộ máy Chính phủ thực hiện tốt vai trò Chính phủ kiến tạo, nỗ lực xóa bỏ nhiều thủ tục hành chính rườm rà, tạo ra môi trường kinh doanh, đầu tư thuận lợi để tập trung, chuyển hóa nguồn lực từ tất cả các thành phần kinh tế vào phát triển kinh tế – xã hội. Môi trường kinh doanh trong nước được cải thiện, năng lực cạnh tranh quốc gia được nâng cao. Quyền tự do, bình đẳng trong kinh doanh, tiếp cận cơ hội kinh doanh được cải thiện. Chính phủ tiếp tục nỗ lực đẩy mạnh cải cách hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh và danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Vị trí xếp hạng môi trường kinh doanh toàn cầu của Việt Nam tăng từ hạng 88 năm 2010 lên hạng 70 năm 2019. Môi trường cạnh tranh trong nước từng bước được cải thiện, pháp luật về tố tụng cạnh tranh cũng có những bước tiến, tạo tiền đề giải quyết cho nhiều vụ việc. Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công bố trong Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2019 (The Global Competitiveness Report 2019), thì năm 2019, Việt Nam đứng vị trí thứ 67 trong số 141 quốc gia và vùng lãnh thổ trong bảng xếp hạng, tăng 10 bậc so với năm trước, ở vị trí 77 trong số 135 với hầu hết các chỉ số được cải thiện.







