Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2022

Báo chí Trung Quốc dành nhiều mỹ từ với chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng




Tình hữu nghị đặc biệt, mối quan hệ được nâng lên tầm cao mới hay chuyến công tác đáng kỳ vọng là những gì mà báo chí Trung Quốc mô tả về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc cũng như chuyến thăm nước này của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, theo lời mời của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.


Ngày 30/10, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam đến Thủ đô Bắc Kinh, bắt đầu chuyến thăm chính thức nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa theo lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình.

Đây là chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sau Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng là nhà lãnh đạo cấp cao nước ngoài đầu tiên thăm Trung Quốc chỉ hơn một tuần sau Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc thành công tốt đẹp.

Do vậy, chuyến thăm có ý nghĩa hết sức quan trọng không chỉ đối với quan hệ hai Đảng, hai nước, phù hợp với lợi ích căn bản, lâu dài của hai bên mà còn có lợi cho việc thúc đẩy hợp tác ở khu vực và trên thế giới.

Hàng loạt các tờ báo và hãng truyền thông lớn của Trung Quốc như Nhân Dân nhật báo, Tân Hoa xã, Đài Phát thanh Truyền hình Trung ương Trung Quốc... ngày 30/10 đã đăng tin và nhiều bài phân tích sâu về chuyến thăm này.

- Trang The Paper và tờ Tân Dân buổi chiều khẳng định, việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trở thành nhà lãnh đạo cấp cao nhất đầu tiên của nước ngoài tới Trung Quốc sau Đại hội XX và việc Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình chọn Việt Nam là điểm đến đầu tiên sau Đại hội XIX 5 năm trước, đã cho thấy “tình hữu nghị đặc biệt và sự giao lưu mật thiết lâu nay giữa hai nước”. Do vậy, chuyến thăm đã thu hút được sự quan tâm của cả thế giới.

- Đài Phát thanh Truyền hình Trung ương Trung Quốc thì dẫn lời Đại sứ nước này tại Việt Nam Hùng Ba chia sẻ rằng, chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được cả Trung Quốc và Việt Nam hết sức coi trọng. Đây là thời điểm tốt nhất để tiến hành chuyến thăm bởi Đại hội XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc vừa bế mạc, sự nghiệp XHCN của hai nước cùng bước vào giai đoạn phát triển mới kế thừa quá khứ và hướng tới tương lai. Ông đánh giá cao giao lưu giữa hai Đảng và những ưu thế của mối quan hệ này trong việc dẫn dắt và thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, nhấn mạnh những ưu thế sẽ được “thể hiện đầy đủ trong thành quả chính trị của chuyến thăm này”. Đại sứ Hùng Ba cũng nêu rõ tầm quan trọng của hợp tác kinh tế thương mại trong tổng hệ quan hệ song phương, cho biết trong chuyến thăm này “các ban ngành, các lĩnh vực của hai nước sẽ đạt được những kết quả hợp tác thiết thực và vô cùng phong phú”.

- Mục bình luận của tờ Thượng Hải Quan sát có bài viết "Lãnh đạo đầu tiên thăm Trung Quốc sau Đại hội XX - Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gửi thông điệp gì tới Trung Quốc". Bài viết trích dẫn nội dung điện mừng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gửi Tổng Bí thư Tập Cận Bình ngay sau khi Tổng Bí thư Tập Cận Bình tái đắc cử lãnh đạo cao nhất Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XX: "Tôi mong sớm được gặp lại đồng chí để chúng ta cùng nhau đi sâu trao đổi những vấn đề chiến lược, góp phần tăng cường hơn nữa tin cậy chính trị, đề ra những định hướng lớn cho tương lai phát triển tốt đẹp của quan hệ hai nước".

- Ông Bai Ming, Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu Thị trường Quốc tế thuộc Học viện Hợp tác Kinh tế và Thương mại Quốc tế Trung Quốc nhận định, quan điểm nhất quán của Trung Quốc là phát triển hợp tác kinh tế với Việt Nam. Ông hy vọng, thông qua chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hợp tác kinh tế song phương sẽ được thúc đẩy hơn nữa.

Theo chương trình, ngày 31/10, lễ đón chính thức Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ được tổ chức trọng thể tại Đại lễ đường Nhân dân Bắc Kinh do Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình chủ trì. Ngay sau lễ đón, Tổng Bí thư hai nước sẽ tiến hành hội đàm cấp cao và chứng kiến lễ ký kết nhiều văn kiện quan trọng.

Thứ Tư, 26 tháng 10, 2022

Biến chứng, nhiễm trùng vì chăm sóc da bằng sản phẩm trôi nổi


Thời gian gần đây, Bệnh viện Da liễu Trung ương tiếp nhận các trường hợp sau chăm sóc da, làm đẹp bằng các sản phẩm không rõ thành phần, nguồn gốc tại các spa, dẫn đến tình trạng biến chứng, nhiễm trùng nặng.
Mới đây, bệnh viện tiếp nhận cô gái trẻ mới 24 tuổi đến khám vì sốt cao, mệt mỏi, mụn nước lõm giữa lan tỏa toàn bộ vùng mặt. Trước đó 3 ngày, cô gái này đã đắp mặt, bôi kem được gọi là "detox" tại spa gần nhà để điều trị trứng cá.
Bác sĩ Lê Thị Hoài Thu, Khoa Bệnh da phụ nữ và trẻ em cho biết, bệnh nhân đến bị ngứa, đau rát khắp mặt. Vùng mặt bệnh nhân có nhiều mụn nước lõm giữa kích thước đồng đều 2x3mm lan tỏa toàn bộ vùng trán, hai bên má, mũi, cằm. Mụn đóng vảy tiết nâu, một số tổn thương chảy mủ vàng dày. May mắn, bệnh nhân không có tổn thương niêm mạc mắt, miệng./.



Thứ Sáu, 21 tháng 10, 2022

"Áp lực làm trụ cột khiến nhiều người đàn ông bị ám ảnh"


Đây là chia sẻ của nhiều nhân vật trong chương trình Góc nhìn văn hóa số mới nhất.

Đàn ông, phụ nữ hay bất cứ ai đều phải đối mặt với những áp lực riêng, những khó khăn riêng. Nhưng với đàn ông, nhiều khi áp lực không chỉ tới từ công việc. Họ phải gánh vác trên vai nhiều gánh nặng, trong đó có cả những gánh nặng vô hình.
Trong quan niệm truyền thống của người Việt, người đàn ông là trụ cột gia đình. Từ khi họ sinh ra đã được dạy phải gánh vác trên vai trách nhiệm này. Đàn ông phải kiếm tiền về nuôi cha mẹ, vợ con, phải thành công trong sự nghiệp, phải có sức khỏe tốt để gánh vác các việc nặng nhọc trong gia đình, phải mạnh mẽ để che mưa che nắng cho phụ nữ. Những định kiến giới này khiến nhiều người đàn ông cảm thấy mệt mỏi, áp lực... nhưng thậm chí cũng không dám bộc lộ ra ngoài. Bởi từ khi còn nhỏ, họ đã được dạy đàn ông không được yếu đuối, không được khóc. Một câu hỏi được đặt ra là khi phụ nữ mệt mỏi, đàn ông là bờ vai cho họ dựa vào. Vậy khi đàn ông mệt mỏi, họ có thể tựa vào đâu?
"Nam giới cũng đang phải chịu nhiều thứ liên quan đến định kiến giới. Vào thời nguyên thủy, khi nam giới bắt đầu tham gia vào săn bắn, người phụ nữ ở nhà hái lượm, từ đó đã hình thành nên những vai trò khác nhau. Người ta quy cho nam giới những chuẩn mực nhất định mà họ phải tuân theo. Theo chiều dài lịch sử, ở một số nước cũng góp phẩn thay đổi những chuẩn mực đó, gỡ bỏ những gánh nặng cho nam giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam xu hướng này có xảy ra nhưng còn chậm", bà Lê Thị Lan Phương - Cơ quan Liên Hợp Quốc về Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ, UN Women Việt Nam chia sẻ.
Theo thống kê của Viện Nghiên cứu phát triển xã hội, có gần 25% số nam giới được phỏng vấn cho rằng họ cảm thấy áp lực trong cuộc sống, trong đó có hơn 80% bị áp lực kinh tế, gần 70% bị áp lực về sự nghiệp.
Vì cho rằng đàn ông là trụ cột nên nếu họ không kiếm tiền nhiều hơn vợ, họ sẽ cảm thấy mình kém cỏi. Vì cho rằng đàn ông là phải mạnh mẽ nên nếu họ ốm yếu, không ít người sẽ nghĩ mình vô dụng. Vì cho rằng đàn ông phải bản lĩnh, nên khi gặp khó khăn, mất phương hướng, nhiều người sẽ tìm cách che giấu. Điều này nhiều khi khiến họ cảm thấy cô đơn ngay trong chính tổ ấm của mình. Việc duy trì những định kiến giới theo quan niệm cũ khiến vợ - chồng đôi khi khó chia sẻ, thấu hiểu nhau, gây ra những mâu thuẫn không đáng có.
"Áp lực làm trụ cột khiến rất nhiều người đàn ông bị ám ảnh. Những áp lực đó có thể kéo dài triền miên, ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của người đàn ông rất nhiều, khiến họ sinh ra cáu. Ở một số người, nó thành hành vi bạo lực", TS. Khuất Thu Hồng - Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển xã hội – cho biết.
Xã hội Việt Nam đang trong giai đoạn giao thoa, giữa một bên là những quan niệm mới của xã hội hiện đại và một bên là những quan niệm cũ, truyền thống. Áp lực lên vai người đàn ông phản ánh sự tiếp biến về hệ giá trị trong mỗi gia đình, hệ giá trị con người, giá trị về giới. Từ vai trò thụ động trong gia đình, người phụ nữ ngày nay dần khẳng định được vị thế, cùng gánh vác về kinh tế. Một số người vợ thậm chí còn nắm giữ vai trò chủ lực về kinh tế trong gia đình. Điều này có thể là niềm vui vì được chia sẻ gánh nặng với người đàn ông này, nhưng lại là nỗi buồn và cảm giác thất bại với người đàn ông khác.
Đã tới lúc, xã hội cần gạt bỏ định kiến giới, để người đàn ông cũng như người phụ nữ không còn bị trói buộc bởi những quan niệm cũ, làm việc và hạnh phúc với những gì cá nhân mình có thể làm được, thay vì những gì mình phải làm theo kỳ vọng của người khác. Nhưng để thay đổi được những định kiến về giới trong tương lai một cách bền vững thì cần quan tâm tới việc giáo dục những đứa trẻ, bao gồm cả trẻ em trai và trẻ em gái.
"Những em bé trai khi khóc hoàn toàn có thể làm diều đó một cách thoải mái, thể hiện cảm xúc của mình thay vì trấn áp ngay từ nhỏ rằng con trai phải mạnh mẽ, không được khóc. Từ những việc nhỏ trong gia đình, chúng ta có thể giúp những người đàn ông khi lớn lên có thái độ bình đẳng, vượt qua áp lực về định kiến giới…", bà Lê Thị Lan Phương chia sẻ thêm.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 13 xác định "Cần xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh". Sự tiến bộ, hạnh phúc, văn minh sẽ có, khi mỗi thành viên trong gia đình có thể phát huy hết khả năng của mình. Tôn trọng, yêu thương nhau. Có thể chia sẻ cùng nhau mọi vấn đề trong cuộc sống. Chồng và vợ đều là chỗ dựa cho nhau khi thành công cũng như lúc khó khăn, thất bại. Khi vui cũng như lúc buồn. Khi nhận được sự sẻ chia đúng lúc, áp lực trên vai cả người đàn ông và người phụ nữ đều nhẹ đi đáng kể. Cả hai cùng chia sẻ trách nhiệm, tạo điều kiện cho nhau phát triển.

Chủ Nhật, 16 tháng 10, 2022

Để từ chức trở thành nét văn hóa ứng xử của cán bộ


Trong đời sống xã hội, tuy không phải là hiếm, nhưng rất khó khăn để một cán bộ từ chức dù với lý do nào. Có nhiều rào cản khiến cho việc từ chức không hề dễ như nguyên tắc “có lên-có xuống”, “có vào-có ra” trong công tác cán bộ.


Điều đó cho thấy, để từ chức thực sự trở thành vấn đề bình thường, là nét văn hóa ứng xử trong công vụ cần có cả quá trình thay đổi từ quan niệm, nhận thức đến hành vi của mỗi người, cùng những thiết chế phù hợp.

Vì sao từ chức khó khăn?

Trong hệ thống công quyền ở nước ta, cán bộ từ chức hiện nay được nhìn nhận dưới hai góc độ. Thứ nhất là cán bộ có sai phạm khi thực thi công vụ. Trong đó, một số từ chức vì tự trọng, danh dự khi sai phạm của họ chưa đến mức phải cách chức. Số còn lại từ chức, nghỉ việc vì sai phạm của họ đến mức phải xử lý, nếu họ không từ chức thì tổ chức cũng sẽ cách chức. Thứ hai là cán bộ từ chức vì sức khỏe; vì tạo cơ hội cho người khác; vì công việc không phù hợp với chuyên môn; vì có định hướng khác... Thẳng thắn nhìn nhận, từ chức vốn là vấn đề không dễ dàng với mỗi cá nhân do nó liên quan đến lợi ích, quyền lực, danh dự... thậm chí là "cơm áo" hằng ngày của chính người đó.

Những năm tháng kháng chiến, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, cán bộ phần lớn xả thân đi làm cách mạng, chịu mọi tù đày cũng chỉ mong cách mạng thành công, đến ngày được giải phóng. Khi đó, bổng lộc, quyền lợi với họ chỉ là thứ yếu, họ sẵn sàng hy sinh cả tính mạng vì tổ chức. Bởi thế, chuyện họ từ chức khi thấy mình không hoàn thành tốt công việc, hay nhường cơ hội cho người khác... diễn ra nhẹ nhàng. Ngày nay, nhiều cán bộ trưởng thành trong hòa bình (một số được thừa hưởng cuộc sống đầy đủ từ gia đình), gắn liền với quyền lợi, bổng lộc, bởi thế không dễ để họ từ bỏ những điều đang có.

Bên cạnh đó, gánh nặng khiến nhiều cán bộ không dám từ chức đó là sức ép từ gia đình, dòng họ, đồng nghiệp. Sức ép từ quan niệm “một người làm quan cả họ được nhờ” là áp lực lớn với nhiều cán bộ. Chức tước ở nước ta vẫn bị mặc định là “tiêu chuẩn” đánh giá sự thành đạt, địa vị xã hội không chỉ với cá nhân mà còn với gia đình, dòng họ, thậm chí mang tính địa phương. Dân tộc ta trọng tri thức, trọng danh nên luôn quan niệm “một người làm quan cả họ được nhờ”, “làm quan phát tài”. Về bản chất, đây là những quan niệm tốt đẹp, cái “cả họ được nhờ” ở đây là tiếng tốt, tiếng thơm, nhưng dần dần nó mặc nhiên được hiểu là sự nâng đỡ, mang lại lợi ích vật chất, quyền lực cho dòng họ.

Mặt khác, dù là một góc khuất nhưng rất cần “điểm mặt, chỉ tên” đó là tình trạng cán bộ chạy chức, chạy quyền không phải là chuyện hiếm. Ai đó, bỏ tiền bạc để chạy chức thì khó để họ từ chức.

Mặc dù Đảng, Nhà nước đã có những quy định rõ ràng cũng như khuyến khích cán bộ có sai phạm, không đủ uy tín từ chức, tuy vậy, chúng ta chưa xây dựng được thiết chế thuận tiện để cán bộ đã từ chức, nghỉ việc quay trở lại làm việc. Thực tế, những cán bộ đã từ chức, nghỉ việc thì rất khó có cơ hội trở lại hệ thống công quyền.

Những tấm gương trong lịch sử

Từ chức theo Quy định số 41-QĐ/TW ngày 3-11-2021 của Bộ Chính trị “về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ” là việc cán bộ tự nguyện xin thôi giữ chức vụ khi chưa hết nhiệm kỳ hoặc chưa hết thời hạn bổ nhiệm và được cấp có thẩm quyền chấp thuận.

Ở một chừng mực nhất định, trong lịch sử dân tộc, văn hóa công vụ về từ chức đã hình thành dù chưa phổ biến. Nó thể hiện lòng tự trọng, giữ phẩm giá của mỗi người. Khi thấy mình không đủ năng lực, không đủ uy tín để lãnh đạo, dẫn dắt, mở đường thì từ chức là cần thiết. Từ chức đúng cũng là tiếng nói phản biện, chống lại cái sai, cái không phù hợp. Lịch sử dân tộc ta đã có những người như thế. Nhà giáo-đại quan Chu Văn An, đại thi hào Nguyễn Trãi, Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm... là những người đã khẳng khái từ quan khi khuyên can triều đình những việc làm sai trái mà không được chấp thuận. Lịch sử dân tộc còn ghi việc nhiều vị quan tướng đã từ quan để phản đối sau khi Vua Tự Đức và triều đình nhà Nguyễn ký các hiệp ước đầu hàng thực dân Pháp. Cũng trong lịch sử các triều đại phong kiến, nhiều bậc danh tướng cầm quân đánh giặc, khi thất bại đã từ chức, tự trói mình chịu tội với triều đình.

Thời đại Hồ Chí Minh, vì sự nghiệp lớn lao của cách mạng, nhiều đồng chí giữ các cương vị quan trọng đã sẵn sàng rút lui khỏi chức vụ để thuận lợi cho cách mạng, sẵn sàng từ chức khi thấy mình chưa hoàn thành tốt trọng trách. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thành lập, khi tổ chức Chính phủ lâm thời, có những đồng chí trong Ủy ban Trung ương Quốc dân Đại hội bầu ra, đáng lẽ cũng tham dự Chính phủ, song các đồng chí ấy đã tự động xin rút, để nhường chỗ cho những nhân sĩ yêu nước nhưng còn ở ngoài Việt Minh. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần phát biểu trước Đảng, trước dân cũng đã đánh giá rất cao công lao và sự hy sinh quyền lợi của các đồng chí đó. Trong quá trình công tác, cũng có nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng tự nguyện xin rút khỏi các vị trí lãnh đạo. Sau sai lầm của cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức đảng, đồng chí Trường Chinh xin từ chức Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí Hoàng Quốc Việt đã xin rút khỏi Bộ Chính trị. Hay như đồng chí Nguyễn Văn Linh từng xin rút khỏi Bộ Chính trị, nhưng sau đó, với những đóng góp quan trọng cho Đảng, cho đất nước, ông trở lại tham gia Bộ Chính trị rồi trở thành Tổng Bí thư.

Ngày nay, có một số cán bộ mạnh dạn từ chức để dành cơ hội cho người khác. Một trong số đó là ông Nguyễn Sự, nguyên Bí thư Thành ủy Hội An (Quảng Nam). Ông Nguyễn Sự từ chức Bí thư Thành ủy trước hai năm của nhiệm kỳ. Việc ông Nguyễn Sự từ chức đã gây sự tiếc nuối với nhiều người vì ông là cán bộ có uy tín, luôn làm việc với tinh thần trách nhiệm cao và không có sai phạm.

Trên thực tế, thời gian qua, đã có một số cán bộ giữ các chức vụ quan trọng ở cả Trung ương và địa phương xin từ chức. Phần lớn số cán bộ này từ chức là do có vi phạm khuyết điểm. Dù việc họ từ chức là thể hiện sự chủ động, tuy nhiên việc từ chức sau khi đã nhận hình thức kỷ luật thì tính chất, ý nghĩa cũng khác. Chúng ta cần những cán bộ làm gương như ông Nguyễn Sự, với lời chia sẻ của ông: "Mình đã làm được một thời gian rồi, tư duy của mình không thể tạo ra những cái mới, vì thế, để tạo điều kiện cho lớp trẻ kế tục sự nghiệp của mình và sự nghiệp chung thì tốt nhất nên từ chức...".

Cần có “Khoán 100”, “Khoán 10” về từ chức-phục chức

Trên thực tế, Đảng, Nhà nước đã có các quy định pháp lý cho việc từ chức. Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) của Đảng "về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ" xác định phải "xây dựng quy định để việc nhận trách nhiệm, từ chức, từ nhiệm trở thành nếp văn hóa ứng xử của cán bộ". Luật Công chức, viên chức cũng quy định những vấn đề này. Đặc biệt, ngày 3-11-2021, Bộ Chính trị ban hành Quy định 41-QĐ/TW “về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ” và ngày 8-9-2022, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Thông báo số 20-TB/TW Kết luận của Bộ Chính trị “về chủ trương bố trí công tác đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý sau khi bị kỷ luật”. Điểm đáng chú ý, Bộ Chính trị khuyến khích cán bộ bị kỷ luật cảnh cáo hoặc khiển trách mà năng lực hạn chế, uy tín giảm sút tự nguyện xin từ chức.

Có thể thấy, những quy định này đã có nội hàm rất rõ khi coi việc từ chức là vấn đề bình thường trong thực thi công vụ. Nó cũng mở đường cho những cán bộ có sai phạm, yếu kém; đồng thời tạo thuận lợi cho những cán bộ muốn từ chức vì những lý do chính đáng khác. Tuy nhiên, trên thực tế, còn một rào cản khác khiến cho cán bộ không dễ dàng từ chức, đó là nếu đã từ chức thì gần như không còn cơ hội để quay lại hệ thống công quyền. Thực tế, các quy định của Đảng không chặn đường tiến của cán bộ đã từ chức. Điểm 2 Điều 10 Quy định số 41-QĐ/TW nêu: “2. Cán bộ đã từ chức và bố trí công tác khác, nếu được cấp có thẩm quyền đánh giá tốt, bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện và khắc phục được những yếu kém, sai phạm, khuyết điểm thì có thể được xem xét để quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử theo quy định”. Dù vậy, trên thực tế vẫn còn quan điểm nặng nề, định kiến khi phục chức, hay thăng chức cho một cán bộ từ chức. Dư luận dường như chưa sẵn sàng chấp nhận điều đó. Có ý kiến cho rằng, cần có một “Khoán 100”, “Khoán 10” trong việc “từ chức-phục chức”.

Như đã đề cập, nếu ai đó đã chạy chức thì rất khó để họ từ chức, mà bằng mọi cách để giữ chức. Bởi thế, cần xử lý cương quyết với tình trạng chạy chức. Cùng với thực hiện nghiêm các quy định của Đảng về cán bộ nêu gương, chống chạy chức, chạy quyền thì điều rất quan trọng là thực hiện các giải pháp để ngăn chặn hành vi này. Từ thực tiễn cho thấy, Đảng phải kiên quyết siết chặt quy trình, quy định về công tác bổ nhiệm cán bộ theo hướng gắn trách nhiệm cụ thể của người đề cử cán bộ và người đứng đầu cấp ủy đề nghị bổ nhiệm. Trường hợp cán bộ có sai phạm trong phạm vi thời gian nhất định thì người đề cử và người đứng đầu cấp ủy đề nghị bổ nhiệm cán bộ đó cũng bị xem xét xử lý kỷ luật. Cùng với đó, cần thực hiện công khai danh sách cán bộ từ quy hoạch đến đề bạt, bổ nhiệm, đánh giá, luân chuyển để quần chúng biết và cùng giám sát. Thực hiện cơ chế cạnh tranh bình đẳng để tuyển chọn những người tài giỏi, trong sạch làm lãnh đạo, quản lý. Và điều quan trọng nhất, phải ban hành được tiêu chuẩn đánh giá cán bộ hằng năm một cách công khai, minh bạch, công bố trong tập thể để giám sát. Những người bị đánh giá hạn chế về năng lực, phẩm chất, không có quy hoạch thì cũng không dễ để chạy chức.

Trở lại vấn đề gốc của người cán bộ thì từ chức cần được xem là vấn đề bình thường trong bộ máy công quyền, đúng cả về lý luận và thực tiễn. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhiều lần khẳng định quan điểm xuyên suốt: “Cán bộ là công bộc của dân”; chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ... Chức tước, địa vị của cán bộ thực ra là do nhân dân ủy thác. Khi thấy mình không thể làm tốt vai trò là một công bộc thì từ chức là việc nên làm. Đó không đơn thuần là một hành động mà cần xem nó là văn hóa ứng xử của cán bộ, rất cần thiết dù trong bất cứ môi trường, công việc nào.

Thứ Bảy, 15 tháng 10, 2022

TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG: VỤ HẢI DƯƠNG, MÓC NGOẶC VỚI NHAU TỪ BÍ THƯ TỈNH ỦY ĐẾN CÁC CÁN BỘ


Sáng 15/10, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng các đại biểu của đơn vị bầu cử số 1 đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội tiếp xúc cử tri các quận Hai Bà Trưng, Đống Đa, Ba Đình trước kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XV.

Đề cập đến vấn đề kiểm soát quyền lực, Tổng Bí thư cũng khẳng định cơ chế kiểm soát quyền lực sẽ tiếp tục được quan tâm nhiều hơn để ngăn chặn tình trạng cán bộ không ai giám sát dẫn đến "tự tung, tự tác, muốn làm gì thì làm”. Thậm chí bè cánh, móc ngoặc với nhau trở thành lợi ích nhóm là vô cùng nguy hiểm.
Dẫn ví dụ xử lý một số cán bộ ở Hải Dương liên quan Công ty Việt Á, Tổng Bí thư cho biết "không phải một người mà móc ngoặc với nhau từ Bí thư Tỉnh uỷ cho đến Chủ tịch tỉnh, cán bộ các cấp và còn móc với cán bộ trên Trung ương".
Tại Hội nghị Trung ương 6, đã kỷ luật Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương ở mức cao nhất là khai trừ Đảng. Không chỉ kỷ luật, nếu cán bộ thấy có khuyết điểm, tự nhận và xin thôi, tự từ chức thì Trung ương hoặc các cơ quan có thẩm quyền đồng ý quyết định cho thôi.
Tổng Bí thư nhấn mạnh "cuộc chiến đấu" vẫn đang còn tiếp tục, chưa phải hết và một số các vụ trọng tâm, trọng điểm đang làm và sẽ làm.

Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2022

Việt Nam: Tự tin bước vào "Sân chơi" lớn - Bài 5

 


Sau nhiều năm nỗ lực “lấy xây để chống,” đảm bảo “sức mạnh mềm” về nhân quyền, giờ đây, Việt Nam đã đủ “sức đề kháng” trước mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để xảy ra các “điểm nóng” về an ninh trật tự; qua đó chủ động tham gia vào “luật chơi” toàn cầu.

Với kết quả trên, tại Hội nghị tập huấn công tác nhân quyền cho hơn hàng nghìn cán bộ cấp cơ sở, diễn ra tại tỉnh Lai Châu mới đây, Phó Cục trưởng Cục Thông tin đối ngoại (Bộ Thông tin và Truyền thông) Đinh Tiến Dũng khẳng định: “Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn sẵn sàng trao đổi, đối thoại cởi mở với các cơ quan, tổ chức quốc tế về quyền con người trên tinh thần xây dựng nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau; để các cơ quan, tổ chức quốc tế có nhận định, đánh giá thực tiễn tình hình nhân quyền trong nước trên cơ sở công bằng, minh bạch và khách quan.”

Đủ “sức đề kháng” trước mọi luận điệu xuyên tạc

Nhấn mạnh chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng tiến bộ; người dân tộc thiểu số được hưởng toàn bộ các quyền con người chính đáng, bà Trần Chi Mai, Phó Vụ trưởng Vụ hợp tác quốc tế (Ủy ban Dân tộc của Chính phủ) cho biết thời gian gần đây, niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đã không ngừng được củng cố và tăng cường, đi vào chiều sâu và tầm cao mới.

Cùng với đó, sự đồng thuận xã hội đã được nâng lên, khối đại đoàn kết các dân tộc được xây dựng vững chắc hơn, đủ “sức đề kháng” với mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch; qua đó góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được phát triển sâu rộng, không để xảy ra các “điểm nóng” về an ninh trật tự như thời gian trước.

Khảo sát của Ủy ban Dân tộc cũng cho thấy kinh tế-xã hội tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong những năm qua đã có bước phát triển khá.

Các địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đều đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn trước. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và thu nhập bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông, lâm nghiệp. Kết cấu hạ tầng vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được đầu tư xây dựng đồng bộ, tạo điều kiện cho đồng bào tiếp cận với các dịch vụ công thuận lợi hơn. Tiềm năng lợi thế ở từng vùng, từng khu vực được khai thác hiệu quả hơn, góp phần nâng cao thu nhập của người dân.

Bên cạnh đó, sự nghiệp giáo dục đào tạo, dạy nghề, y tế, chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục được quan tâm đầu tư, phát triển cả về số lượng và chất lượng, góp phần nâng cao mặt bằng dân trí và chất lượng nguồn nhân lực.

Công tác giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa đặc sắc của cộng đồng các dân tộc thiểu số được quan tâm, phong tục tập quán lạc hậu dần được xóa bỏ; một số sản phẩm văn hóa vật thể, phi vật thể được khôi phục, lưu truyền. Hàng năm, các ngày hội văn hóa các dân tộc được tổ chức mang đậm dấu ấn của từng vùng, từng dân tộc, phong phú, đa dạng, thống nhất trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam.


Có chung quan điểm, ông Đinh Tiến Dũng, Phó Cục trưởng Cục Thông tin đối ngoại (Bộ Thông tin và Truyền thông) cũng nhấn mạnh những năm qua, dù là đất nước đang phát triển, đời sống kinh tế-xã hội còn gặp nhiều khó khăn nhưng Việt Nam luôn nỗ lực và đã đạt được những kết quả tích cực trong bảo vệ quyền con người.

Điển hình là, theo Báo cáo kinh tế-xã hội tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020; hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; tại Việt Nam không có khủng bố, người dân được sinh sống và lao động trong môi trường an ninh, an toàn, ổn định…

Báo cáo Hạnh phúc thế giới năm 2022 của Liên hợp quốc cũng khẳng định chỉ số hạnh phúc quốc gia của Việt Nam xếp vị trí 77 (tăng 2 bậc so với năm 2021).

“Với những kết quả đạt được, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn sẵn sàng trao đổi, đối thoại cởi mở với các cơ quan, tổ chức quốc tế về quyền con người trên tinh thần xây dựng nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau; để các cơ quan, tổ chức quốc tế có những nhận định, đánh giá thực tiễn tình hình nhân quyền trong nước trên cơ sở công bằng, minh bạch, khách quan. Mặt khác, Việt Nam không bao giờ chấp nhận và kiên quyết đấu tranh với những luận điệu, đánh giá chủ quan, phiến diện, thiếu thiện chí, không có cơ sở, không phản ánh đúng tình hình thực tế,” ông Dũng nhấn mạnh.

Trên tinh thần đó, đại diện Cục Thông tin đối ngoại cho biết hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục hướng tới mục tiêu đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của người dân, xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh. Đồng thời chủ động ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn sử dụng vấn đề “dân chủ, nhân quyền” để chống phá cách mạng Việt Nam.

Hội nhập quốc tế sâu rộng, làm chủ thông tin

Để thực hiện mục tiêu trên, Phó Cục trưởng Cục Thông tin đối ngoại Đinh Tiến Dũng cho biết công tác thông tin, tuyên truyền có vai trò, vị trí rất quan trọng. Trong đó, Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác nhân quyền trong tình hình mới đã đề ra các nhiệm vụ trọng tâm của công tác nhân quyền, trong đó nhiệm vụ đầu tiên là: Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân để mọi người nhận thức sâu sắc hơn về quan điểm của đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, nhận thức rõ bản chất tốt đẹp của chế độ ta là vì con người.

Trong thời gian qua, nhằm tăng cường hoạt động thông tin và nâng cao khả năng tiếp cận thông tin cho hộ nghèo, đồng bào dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành và triển khai thực hiện Chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông công ích đến năm 2020; tích hợp các chính sách hỗ trợ thông tin, tuyên truyền cho hộ nghèo, đồng bào dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo kết hợp với các Chương trình Mục tiêu Quốc gia về thông tin, Chương trình Mục tiêu quôc gia về giảm nghèo bền vững.

Cùng với đó, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 942/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 nhằm phổ cập và cá nhân hóa các dịch vụ (như dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế) tới từng người dân để phục vụ quyền của người dân tốt hơn; tạo ra cơ hội cho người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo tiếp cận dịch vụ trực tuyến một cách công bằng, bình đẳng và nhân văn, rộng khắp.

Theo bà Trần Chi Mai, Phó Vụ trưởng Vụ hợp tác quốc tế (Ủy ban Dân tộc của Chính phủ), những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới sẽ tiếp tục tạo đà cho sự phát triển của đất nước cũng như đạt được mục tiêu “không để ai bị bỏ lại phía sau.” Uy tín và ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục tăng lên sẽ là yếu tố nền tảng để hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn.

Mới đây, Báo Washington Times ngày 21/9 đã đăng bài viết trong đó ủng hộ Việt Nam ứng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025. Theo bài viết, Việt Nam tiếp tục được đánh giá cao tại Liên hợp quốc với việc cử cán bộ tham gia phái bộ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Nam Sudan và Cộng hòa Trung Phi, là thành viên tích cực trong các cuộc đàm phán nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững ưu tiên của Liên hợp quốc.

Đồng tình với nhận định trên, phó giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Thị Thanh Hải, Phó Viện trưởng, Viện Quyền con người (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) cho biết để thực hiện nghĩa vụ pháp lý của một quốc gia thành viên đối với các công ước, trong những năm qua, Việt Nam đã chủ động cam kết và thực hiện nghĩa vụ của mình thông qua việc đẩy mạnh việc triển khai chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trên lĩnh vực quyền con người; thực thi các biện pháp lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm quyền con người; soạn thảo và đệ trình báo cáo quốc gia định kỳ về việc thực hiện công ước; hợp tác quốc tế trong việc thực hiện công ước; xây dựng các chương trình quốc gia để thực hiện đúng cam kết quốc tế.

Đặc biệt, trong những năm gần đây, Việt Nam đã chủ động xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện các khuyến nghị của một số cơ quan giám sát việc thực hiện quyền con người của Liên hợp quốc trên cơ sở quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Đây là phương thức khuyến nghị chủ yếu và trực tiếp nhất mà Việt Nam đang triển khai áp dụng đối với khuyến nghị của các uỷ ban công ước.

Việt Nam chủ động tham gia “luật chơi” toàn cầu

Theo phó giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Thị Thanh Hải, Phó Viện trưởng Viện Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, sở dĩ Đảng, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm tới vấn đề nhân quyền, bởi đây là một “luật chơi mới” trên phạm vi toàn thế giới. Việt Nam muốn hội nhập quốc tế, tham gia hội nhập về kinh tế, văn hóa, ngoại giao thì phải tham gia “luật chơi” toàn cầu này.

“Giống như chúng ta chơi cầu lông, bóng đá thì phải hiểu luật chơi đó. Muốn tham gia ‘sân chơi toàn cầu’ thì phải tương tác, đối thoại với thế giới; chia sẻ việc thực hiện quyền con người của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới,” bà Hải nói.

Bà Hải cũng khẳng định Việt Nam hiện đang không coi nhân quyền là vấn đề nội bộ. Bằng chứng là sự tham gia rất tích cực của Việt Nam vào các cơ chế nhân quyền của quốc tế. Sự chủ động của Việt Nam đã được thể hiện trong rất nhiều cuộc đối thoại song phương, đối thoại đa phương trên các diễn đàn quốc tế.

Tuy vậy, có một thực tế cần lưu ý là nhân quyền còn có cả khía cạnh chính trị trong đó. Mặc dù nhân quyền liên quan đến mỗi cá nhân, con người trong xã hội, như “cơm chúng ta ăn, nước chúng ta uống, không khí chúng ta thở hàng ngày đều liên quan tới nhân quyền,” song đây cũng là cụm từ dễ bị các thế lực, tổ chức phản động lợi dụng, để làm cho nhân quyền trở thành vấn đề nhạy cảm và trở nên “méo mó.”

Do đó, theo bà Hải, nhận thức của mỗi cán bộ, nhất là lực lượng công an giữ vai trò rất quan trọng trong việc tuyên truyền, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người dân.

Một lý do khác để nói nhân quyền là một “luật chơi mới” trên toàn cầu, là bởi hiện nay có hẳn một hệ thống pháp luật quốc tế về vấn đề này. Việt Nam chấp nhận tham gia “cuộc chơi” này bằng cách phê chuẩn rất nhiều công ước, điều ước quốc tế về quyền con người; tham gia tích cực vào các diễn đàn, đối thoại trên toàn cầu. Hơn thế, nhân quyền còn là vấn đề ngoại giao quốc tế. Vì thế, trong các cuộc đối thoại song phương hay trong các cuộc đàm phán về thương mại mà Việt Nam tham gia, nội dung nhân quyền cũng được đưa ra để trao đổi và thảo luận công bằng.

“Nhìn từ góc độ tích cực thì việc tham gia ‘luật chơi mới’ về nhân quyền theo yêu cầu của Liên hợp quốc cũng là một kênh rất tốt để Nhà nước Việt Nam tự hào báo cáo với thế giới một cách đàng hoàng về các thành tích mà mình đã làm được. Từ đó, chúng ta thu hút nhà đầu tư đến với Việt Nam nhiều hơn,” bà Hải nhấn mạnh.

Xác định tầm quan trọng của vấn đề nhân quyền, Phó Viện trưởng Viện Quyền con người cho biết trước đây dù còn nghèo nhưng mỗi năm, Việt Nam vẫn đóng góp 1 triệu USD cho các hoạt động của Liên hợp quốc; từ năm 2022, Việt Nam đã tăng khoản đóng góp lên gấp đôi, tức 2 triệu USD (khoảng 46-47 tỷ đồng). Điều này cho thấy sự tham gia của Việt Nam ngày càng chủ động hơn. Cùng với hỗ trợ tài chính, Việt Nam cũng đã tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình, đóng góp tích cực cho Liên hợp quốc.

Trong công cuộc “củng cố” về nhân quyền, đảm bảo quyền con người, Việt Nam đã từng là thành viên không thường trực 2 nhiệm kỳ 2008-2009 và 2020-2021; từng là thành viên của Hội đồng nhân quyền (cơ quan quan trọng nhất, chuyên trách chuyên sâu nhất về vấn đề nhân quyền của Liên hợp quốc) trong nhiệm kỳ 2014-2016. Và bây giờ, Việt Nam đang vận động để được xin ứng cử vào thành viên Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc cho nhiệm kỳ 2023-2025.

“Bên cạnh đó, Nhà nước ta cũng đang điều chỉnh một số luật trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc, như tòa án phải độc lập để đảm bảo việc xét xử công bằng - đây là vấn đề rất tích cực. Thực tế, Nhà nước ta cũng đang gấp rút xây dựng chiến lược thúc đẩy Nhà nước pháp quyền; trong đó nhân quyền được coi là vấn đề cốt lõi, xuyên suốt,” bà Hải thông tin.

Đặc biệt, theo bà Hải, Việt Nam đang làm rất tốt việc giáo dục đào tạo, nâng cao nhận thức về nhân quyền cho đội ngũ cán bộ, công chức của Nhà nước, đặc biệt là cán bộ công an, cán bộ thực thi pháp luật. Hiện tại, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - cơ quan đào tạo cán bộ cấp lãnh đạo quản lý từ Trung ương tới địa phương cũng đã có hẳn một môn học về quyền con người.

Cùng với đó, một đề án của Chính phủ cũng đang được triển khai, đó là đưa nội dung quyền con người vào chương trình học trong hệ thống giáo dục quốc dân; rà soát từ bậc mầm non cho tới đại học.

“Ngoài ra, về khuyến nghị xóa đói, giảm nghèo, tôi cho rằng Việt Nam đã và đang làm rất tốt. Thậm chí, theo tôi biết thì có nước ở châu Phi cũng đã sang Việt Nam để học hỏi kinh nghiệm. Đây là minh chứng cho thấy Việt Nam đã làm rất tốt việc đảm bảo quyền con người, vững tin tham gia ‘luật chơi’ toàn cầu,” bà Hải nói./.

Việt Nam lần thứ hai trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc

Mới đây, ngày 11/10/2022 tại Trụ sở Liên hợp quốc (New York, Hoa Kỳ), Việt Nam đã trúng cử trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025. Theo đó, 14 thành viên mới của Hội đồng Nhân quyền sẽ đảm nhiệm trọng trách trong nhiệm kỳ 3 năm, bắt đầu vào tháng 1/2023.

Kết quả trên cho thấy sự tham gia tích cực của Việt Nam trong các hoạt động của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc trong nhiều năm qua. Trên cơ sở đó, những cam kết và nỗ lực mạnh mẽ của Việt Nam về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, tin tưởng và đánh giá cao./.

 

Theo: Hùng Võ (VN+)

 

Thứ Năm, 13 tháng 10, 2022

Việt Nam: Tự tin bước vào "Sân chơi" lớn - Bài 4

 



Cùng với việc tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật, nâng cao nhận thức về nhân quyền thống nhất tới các cấp cơ sở, thời gian qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Bộ Công an đã đưa hàng trăm công an chính quy về các xã, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa, biên giới trên cả nước để nắm địa bàn, đảm bảo an ninh trật tự; hỗ trợ người dân làm nhà, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, góp phần giữ vững “phên dậu” - thành trì bảo vệ biên cương của Tổ quốc.

Giúp dân bản “bồi đắp” tri thức, “thông sáng” tâm hồn

Một ngày cuối tháng Tám, nắng vàng như rót mật, chúng tôi tìm đến xã Huổi Luông (huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu) - xã biên giới giáp với Trung Quốc. Nơi đây có 21 bản với trên 1.440 hộ gia đình, hơn 7.600 nhân khẩu; gần 100% đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống; trong đó dân tộc Hà Nhì, Dao, Mông chiếm đa số.

Từ khi có lực lượng công an chính quy về xã, các chiến sĩ đã tăng cường vận động, tuyên truyền đến người dân nơi đây từ bỏ một số tập tục lạc hậu, đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, phát triển kinh tế, chung tay bảo vệ vững chắc biên cương.

Đón chúng tôi với nụ cười rạng rỡ, đại tá Đoàn Tá Chinh cho biết trước khi về công tác tại Công an xã Huổi Luông, anh là giảng viên của Trường Học viện Cảnh sát Nhân dân. Theo lệnh điều động vào tháng 7/2021, Chinh cùng gần 400 đồng nghiệp đang công tác tại các đơn vị trực thuộc Bộ Công an đã được điều động về xã biên giới trọng điểm, phức tạp về an ninh, trật tự thuộc tỉnh Lai Châu.

“Khi được điều động về các địa phương vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là các xã hẻo lánh, ‘điểm nóng’ về an ninh trật tự ở các xã biên giới, anh em chiến sĩ chúng tôi luôn cố gắng, quyết tâm, nỗ lực để hoàn thành mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước cũng như ngành công an giao phó,” đại tá Chinh nhấn mạnh.

Với xã Huổi Luông (địa bàn với 4 dân tộc chính là Hà Nhì, Dao, Mông và người Kinh), đại tá Chinh cho biết khi mới về cơ sở, quá trình tiếp xúc, làm việc, học hỏi, động viên người dân các đồng bào dân tộc thiểu số cũng có những rào cản nhất định, do chưa được học tiếng dân tộc. Tuy nhiên, trong quá trình công tác, anh luôn nỗ lực học tiếng để có thể tiếp xúc, gặp gỡ làm việc với bà con được thuận tiện hơn cũng như truyền đạt những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, chính sách phát triển kinh tế-xã hội của địa phương đến trực tiếp với người dân; qua đó để người dân tin tưởng, nhận thức đúng đắn và chấp hành đúng pháp luật.

Đơn cử như việc triển khai Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số Quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030.” Nhiệm vụ đặt ra là thực hiện tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân về lợi ích của đề án, cấp phát làm căn cước công dân, giấy đăng ký tài khoản định danh điện tử để thực hiện các dịch vụ công trực tuyến.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, các chiến sĩ công an gặp rất nhiều khó khăn liên quan đến việc chỉnh sửa, làm “sạch” thông tin, dữ liệu dân cư của người dân. Lý do là trước đây, nhiều bà con đồng bào dân tộc thiểu số không có điều kiện được đi học nên việc nói tiếng phổ thông còn rất hạn chế, dẫn tới khai sinh theo nhiều tên gọi khác nhau (có người vì buồn cũng đổi tên). Chưa kể, mỗi lần khai sinh lại theo một năm sinh khác nhau. Vì thế, việc làm “sạch” dữ liệu dân cư là rất quan trọng.

Hay như việc nhận thức, tiếp cận chính sách, pháp luật của người dân tộc thiểu số tại các vùng sâu, vùng xa, hẻo lánh thông qua các ứng dụng trên điện thoại thông minh cũng còn rất hạn chế. Do vậy, việc tuyên truyền pháp luật, nâng cao nhận thức của bà con về các chính sách phát triển kinh tế-xã hội cũng như kỹ năng sử dụng điện thoại là rất cần thiết để người dân có thể tự phòng ngừa, cảnh giác, không bị các đối tượng xấu trên mạng lợi dụng chiếm đoạt tài sản; tránh bị lôi kéo vào con đường phạm tội như buôn lậu, sập bẫy của các đối tượng mua bán người...

 “Dưới sự chỉ đạo của Bộ Công an cũng như Ban lãnh đạo Công an tỉnh Lai Châu, lãnh đạo Công an huyện Phong Thổ, tập thể cán bộ, chiến sĩ Công an xã Huổi Luông đã luôn chủ động làm tốt công tác gặp gỡ, tuyên truyền, có những hôm thay nhau làm cả ngày lẫn đêm, với quyết tâm nâng cao nhận thức cho người dân, giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn,” đại tá Chinh nói.

Không chỉ làm tròn công tác chuyên môn, trách nhiệm với địa bàn, các chiến sĩ Công an xã Huổi Luông còn tăng cường động viên các gia đình đồng bào dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn cho con đi học trở lại. Để tiếp sức cho các em đến trường, các chiến sĩ công an xã và chính quyền xã đã tổ chức quyên góp, hỗ trợ về kinh phí. Nhờ đó, con đường đến trường của các em ngày một rộng mở.

Ngoài ra, Công an xã Huổi Luông còn nghiên cứu, lắp đặt “Giá sách nhân dân" bởi theo các chiến sĩ nơi đây thì “hồ nước nhờ có dòng chảy liên tục mà trong xanh; con người cũng vậy, nhờ có sự bồi đắp của tri thức mà trí tuệ, tâm hồn được thông sáng.”

Làm nhà ở cho người nghèo -  “Vẹn tròn” với nhân dân

Không chỉ tích cực tham gia vào công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật, “bồi đắp” tri thức, “thông sáng” tâm hồn cho bà con đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa biên giới, các chiến sĩ công an còn “hóa thân” thành những người thợ xây, thợ cơ khí chuyên nghiệp, tham gia vào công cuộc hỗ trợ người dân làm nhà, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, góp phần giữ vững “phên dậu” - thành trì bảo vệ biên cương của Tổ quốc.

Đơn cử như tại tỉnh Lai Châu - tỉnh biên giới phía Tây Bắc của Tổ quốc có 20 dân tộc cùng sinh sống, trong đó có 3 dân tộc đặc biệt khó khăn và dường như chỉ sống ở trên địa bàn tỉnh này (đó là các dân tộc Cống, Mạc, La Hủ). Những năm trước, đời sống của người dân gặp rất nhiều khó khăn, nhất là người dân huyện biên giới Mường Tè, với gần 3.680 hộ nghèo, chiếm khoảng 36% dân số toàn huyện.

Trong cái khó, cái nghèo đó, rất nhiều hộ gia đình chưa có nhà ở hoặc ở nhà tạm bợ bằng tranh, tre, nứa lá, có nguy cơ đổ sập bất cứ lúc nào cũng như không đảm bảo an toàn, đặc biệt là vào mùa mưa lũ, gió lốc. Thế nhưng, từ năm 2020 đến nay, diện mạo của huyện huyện Mường Tè đã có những chuyển biến khởi sắc.

Đặc biệt, được sự quan tâm của Đảng ủy cơ quan công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an, sự hỗ trợ của Thành ủy, chính quyền và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Lai Châu đã triển khai đề án hỗ trợ hộ nghèo, khó khăn về nhà ở tại Mường Tè (gọi tắt là đề án 245) với mong muốn giúp các hộ gia đình nghèo được sống an toàn trong ngôi nhà mới để ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo bền vững, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia.

Yêu cầu đặt ra là nhà phải đảm bảo tiêu chuẩn 3 cứng (gồm nền cứng, khung tường cứng và mái cứng) với thiết kế nhà cao 2,9m cùng hệ thống điện, hệ thống gom nước mưa… đảm bảo chắc chắn, an toàn và phù hợp với điều kiện khắc nghiệt tại Mường Tè. Đối tượng được hỗ trợ theo đề án là các gia đình khó khăn về nhà ở thuộc diện gia đình có công với cách mạng, gia đình chính sách, hộ nghèo được cơ quan có thẩm quyền công nhận nhưng chưa được hưởng các chính sách hỗ trợ về nhà ở.

Trong quá trình triển khai, do địa hình đi lại khó khăn nên vật liệu vận chuyển từ xã vào các bản xây nhà chủ yếu là bằng sức người, thậm chí có những bản phải đi bộ hơn 20km. Thế nhưng, bằng đôi vai, đôi chân của các chiến sĩ và các công chức, viên chức, đoàn thanh niên, bám theo những khe suối, triền núi, hơn 1.000 ngôi nhà đã được xây dựng kịp thời, giúp bà con an toàn hơn trước mỗi mùa mưa bão.

Khẳng định việc triển khai đề án 245 trên là chủ trương rất kịp thời, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu Giàng Páo Mỷ nhấn mạnh đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, mang ý nghĩa nhân văn, sâu sắc. Do đó, tỉnh ủy, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân tỉnh đã kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo, giao cho công an tỉnh xây dựng đề án và chủ trì với các cấp ủy, chính quyền của huyện Mường Tè cũng như các lực lượng quân đội, biên phòng để tiến hành các biện pháp triển khai thực hiện đồng thời rà soát đúng người, đúng đối tượng để hỗ trợ.

“Với sự vào cuộc kịp thời của các cấp ủy, chính quyền từ tỉnh tới cơ sở, sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, đề án 245 đã hoàn thành đảm bảo đúng tiến độ đề ra, qua đó giúp nhân dân có ngôi nhà an toàn hơn để yên tâm phát triển kinh tế-xã hội,” ông Giàng Páo Mỷ nói.

Ghi nhận của phóng viên VietnamPlus tại huyện Mường Tè vào những ngày cuối tháng 8/2022 cho thấy diện mạo của các xã thuộc huyện vùng cao biên giới này đang ngày càng đổi thay. Những ngôi nhà mới, khang trang với cờ tổ quốc, ảnh Bác Hồ được đặt ở các vị trí trang trọng nhất, thể hiện sự biết ơn của bà con trước sự quan tâm của Đảng, Nhà nước; giúp đồng bào ổn định chỗ ở, ổn định cuộc sống.

Chia sẻ với chúng tôi, ông Sùng A Lâu ở bản Cao Chải, xã Tà Tổng cho biết nhờ có đề án 245, gia đình đã được sống trong ngôi nhà rộng rãi, khang trang hơn. “Từ khi có ngôi nhà mới này, gia đình tôi vui sướng lắm. Giờ đây, chúng tôi có thể yên tâm phát triển kinh tế, để quê hương ngày một khởi sắc,” ông Lâu phấn khởi nói.

Xây dựng xã bản kiểu mẫu, vùng cao vươn mình đổi mới

Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước cũng như chính quyền các cấp địa phương, đặc biệt là lực lượng công an chính quy được Bộ Công an phân công, điều động về xã, hỗ trợ bà con, nhiều làng bản vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Lai Châu đang ngày vươn mình đổi mới, trở thành “hình mẫu” cho rất nhiều bản phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo.

Điển hình cho sự đổi mới trên là bản du lịch cộng đồng Sì Thâu Chải (1 trong 8 bản của xã Hồ Thầu, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu) - nơi được biết đến là bản homestay “hút” khách, nằm cheo leo trên đỉnh núi cao 1.500m so với mực nước biển. Tại đây chủ yếu là dân tộc người Dao sinh sống. Từ khi có lực lượng công an chính quy về xã, các cán bộ chiến sĩ đã tăng cường vận động, tuyên truyền người dân nơi đây chung tay xây dựng xã miền núi kiểu mẫu, không ma túy.

Theo đó, để tạo nên một cộng đồng đoàn kết, cùng phát triển, dưới sự tham mưu của công an xã, hướng dẫn, sắp xếp của Đảng bộ, Ủy ban Nhân dân xã Hồ Thầu, các hộ dân trong bản đã phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trồng những cây ăn trái mang đặc trưng của vùng Tây Bắc. Từ đó, những rừng đào, lê, mận được trồng bạt ngàn xung quanh bản, vừa để giữ đất vừa phục vụ khách du lịch tham quan, trải nghiệm, mua sắm sản vật địa phương, tạo sinh kế cho người dân.

Mặt khác, các gia đình có điều kiện làm homestay sẽ mua nguồn thực phẩm (những món ngon, đặc sản), đồ lưu niệm từ những hộ dân khác trong bản để phục vụ khách du lịch, cũng như tạo điều kiện cho các hộ này có thêm thu nhập.

Cùng với phát triển kinh tế, Đảng ủy, Ban Chỉ huy Công an xã Hồ Thầu cũng đã chủ động tham mưu ủy ban nhân dân xã xây dựng và triển khai thực hiện phân công cụ thể cho các ban, ngành, đoàn thể xây dựng kế hoạch lồng ghép công tác chuyên môn với tuyên truyền, phòng chống hiệu quả các loại tội phạm.

Chia sẻ với chúng tôi, Thiếu tá Giàng Văn Hảo, Trưởng Công an xã Hồ Thầu cho biết: “Thời gian qua, chúng tôi đã triển khai kế hoạch xây dựng xã Hồ Thầu là xã miền núi không có tệ nạn ma túy. Hàng đêm, lực lượng công an xã và công an viên theo kế hoạch được phân công sẽ tuần tra, kiểm soát bảo đảm an ninh trật tự.”

Cùng với đó, lực lượng Công an xã Hồ Thầu cũng tăng cường vận động người dân không xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc; chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; xây dựng, phát triển mô hình toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; tích cực phát hiện, tố giác tội phạm; phối hợp chặt chẽ với công an xã trong việc đảm bảo đảm an ninh trật tự bản, khu dân cư; củng cố, duy trì, phát triển các tổ hòa giải, tổ an ninh nhân dân...

Một trong những mô hình hay, hiệu quả và tiêu biểu của Công an xã Hồ Thầu chính là việc tham mưu ủy ban nhân dân xã thành lập và ra mắt mô hình “Camera an ninh.” Dù có nhiều khó khăn về kinh tế, song hiện nay xã Hồ Thầu đã lắp đặt 21 camera an ninh tại các vị trí trọng điểm của các bản. Những “mắt thần” hoạt động bất kể ngày đêm, trong mọi điều kiện thời tiết, hỗ trợ hiệu quả lực lượng Công an xã Hồ Thầu bảo đảm đảm an ninh trật tự, bình yên trên địa bàn.

Trong câu chuyện với phóng viên, anh Phàn A Pao (người dân ở bản Sì Thâu Chải) hồ hởi cho biết hai năm về trước, một số tập tục lạc hậu vẫn còn ăn sâu vào đời sống của người dân nơi đây. Do đó, các đối tượng tội phạm đã lợi dụng sự kém hiểu biết của một số người dân để thực hiện phạm tội, gây mất an ninh trật tự, nghiện hút ma túy vì thế mà trở nên phức tạp.

“Từ khi có các đồng chí công an chính quy về xã tuyên truyền, vận động, giúp đỡ, bà con trong bản đã từ bỏ tập tục lạc hậu, không còn tin kẻ xấu. Xe máy của người dân trong bản để ở ven đường cả đêm lẫn ngày cũng không lo bị mất. Giờ thì chúng tôi yên tâm lắm!” anh Pao phấn khởi nói./.

 

Thứ Tư, 12 tháng 10, 2022

Bảo vệ Đảng trong tình hình mới hiện nay

 PGS, TS NGUYỄN TRỌNG PHÚC


Cương lĩnh và đường lối đổi mới của Đảng được xây dựng trên cơ sở nhận thức đúng đắn, sâu sắc bản chất cách mạng, phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, Cương lĩnh, đường lối đó đứng vững và được hiện thực hóa, có khả năng chống lại mọi sự xuyên tạc và chống phá của các thế lực thù địch cả về lý luận và thực tiễn.

Bảo vệ Cương lĩnh, đường lối chính trị là bảo vệ sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) hoạch định đường lối đổi mới toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại nhằm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, phát triển đất nước, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của nhân dân. Vượt qua thách thức, khủng hoảng và sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở các nước Đông Âu, Liên Xô, Đại hội VII của Đảng (6-1991) tỏ rõ bản lĩnh chính trị, kiên định con đường XHCN với việc đề ra “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH)”. Từ thực tiễn của công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN, Cương lĩnh và đường lối được các đại hội Đảng không ngừng bổ sung, phát triển, đã đưa công cuộc đổi mới của Việt Nam phát triển mạnh mẽ, vững chắc với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.




Bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng là bảo vệ sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, vì Đảng lãnh đạo, cầm quyền chủ yếu bằng Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết… Bảo vệ sự đúng đắn của Cương lĩnh, đường lối với những giá trị lý luận, khoa học, bắt nguồn từ nền tảng tư tưởng của Đảng là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nắm vững những nguyên lý về cách mạng XHCN, những đặc điểm, đặc trưng, quy luật của thời kỳ quá độ lên CNXH. Cương lĩnh và đường lối đổi mới của Đảng được xây dựng trên cơ sở nhận thức đúng đắn, sâu sắc bản chất cách mạng, phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, Cương lĩnh, đường lối đó đứng vững và được hiện thực hóa, có khả năng chống lại mọi sự xuyên tạc và chống phá của các thế lực thù địch cả về lý luận và thực tiễn. Điều đó càng đòi hỏi Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao trình độ lý luận và nhận thức về hệ tư tưởng.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở: “Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về Chủ nghĩa Mác-Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp Chủ nghĩa Mác-Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng XHCN thích hợp với tình hình nước ta. Như thế là phải học tập lý luận, phải nâng cao trình độ lý luận chung của Đảng, trước hết là của cán bộ cốt cán của Đảng”[i].

Nâng cao trình độ lý luận của toàn Đảng và của từng cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, bồi đắp lập trường, quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chẳng những là để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, mà cũng chính là bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng. Đó là sự bảo vệ chủ động, tự giác bởi trí tuệ, có khả năng bác bỏ mọi sự xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch, phản động.

Sức sống của Cương lĩnh thể hiện sâu sắc ở những thành quả đổi mới đất nước

Hiện nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đang đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước theo con đường XHCN. Đó là quá trình hiện thực hóa thành công những mục tiêu, 8 đặc trưng và 8 phương hướng cơ bản mà Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đề ra, đặc biệt là mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các đặc trưng khác cũng được nhận thức và thực hiện rõ hơn thể hiện bản chất tốt đẹp và tính hiện thực của chế độ XHCN ở Việt Nam.

Bảo vệ con đường XHCN là cuộc đấu tranh quyết liệt về hệ tư tưởng, đồng thời là bảo vệ một chế độ xã hội, một hình thái kinh tế-xã hội, bảo vệ quy luật phát triển tất yếu khách quan của lịch sử. Dù phải trải qua nhiều khó khăn, thách thức, theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH.

Thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đổi mới mà Đại hội VI đề ra và các đại hội tiếp theo bổ sung, phát triển. Đại hội XIII của Đảng (1-2021) đã khẳng định những thành tựu cơ bản. Đó là thước đo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Nhà nước và vai trò quyết định của Cương lĩnh, đường lối.

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng bình quân duy trì ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ tiếp tục được đổi mới và có bước phát triển. Phát triển văn hóa, xã hội, con người đạt nhiều kết quả quan trọng. Chính trị-xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt.

Không ngừng bổ sung, hoàn thiện đường lối chính trị của Đảng

Những năm qua, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị vẫn cho rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam chỉ đổi mới kinh tế mà không đổi mới chính trị. Âm mưu, thủ đoạn của họ là thúc đẩy đổi mới chính trị để xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam.

Sự thật là thế nào? Đảng đã kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị. Quan điểm của Đảng là lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm và từ thành tựu kinh tế mà từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Chính trị là lĩnh vực nhạy cảm, phải đổi mới từng bước, thận trọng, vững chắc, không vội vàng khi chưa có đủ điều kiện cần thiết. Đổi mới hệ thống chính trị trong suốt quá trình đổi mới và hiện nay tập trung vào những nội dung nổi bật.

Một là, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN với những đặc trưng cơ bản, hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế; Nhà nước quản lý xã hội, đất nước, nền kinh tế chủ yếu bằng pháp luật; Nhà nước pháp quyền là một trong 8 đặc trưng của mô hình CNXH Việt Nam.

Hai là, thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội; phát huy dân chủ XHCN, tập hợp, đoàn kết rộng rãi mọi giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vì lợi ích quốc gia, dân tộc và hạnh phúc của nhân dân.

Ba là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng kết hợp chặt chẽ với xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị, kết hợp đúng đắn xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng và bảo vệ Đảng, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng.

Thực hiện và bảo vệ 3 vấn đề cốt lõi nêu trên là phát huy tính ưu việt của chế độ và bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh, bền vững về kinh tế-xã hội, vị thế chính trị, văn hóa, con người, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế. Vấn đề bảo đảm an ninh phi truyền thống, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tại, dịch bệnh, nhất là kiểm soát đại dịch Covid-19 có ý nghĩa đặc biệt đối với cuộc sống người dân, không thể xem nhẹ.

Sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng thông qua việc hoàn thiện, bổ sung Cương lĩnh, đường lối và bảo vệ giá trị khoa học, tính hiện thực của đường lối. Đại hội XIII của Đảng đã cụ thể hóa 12 định hướng chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ 2021-2030. Để thực hiện được các định hướng đó cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: Giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. “Đó là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả”[ii].

Kiên quyết giữ vững và bảo vệ ngọn cờ soi đường chỉ lối của Đảng

Tổng kết quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng XHCN và xây dựng CNXH, nhất là những thành tựu đạt được trong thời kỳ đổi mới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã công bố tác phẩm rất quan trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam”.

Từ sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới của thời đại, tác phẩm của Tổng Bí thư đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề mới về lý luận và thực tiễn, khẳng định bản chất cách mạng và khoa học trong nhận thức và hành động thực tế xây dựng CNXH ở Việt Nam, làm rõ CNXH là gì và đi lên CNXH bằng cách nào, từ phương châm, hình thức, bước đi phù hợp để hoàn thiện đường lối quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Điều đó đòi hỏi xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái phổ biến và tính đặc thù.

Tác phẩm đã làm rõ hơn nội dung và khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản, kế thừa những thành tựu, giá trị văn minh nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Tác phẩm nhấn mạnh yếu tố bảo đảm xây dựng thành công CNXH là phải có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản chân chính cách mạng dựa trên học thuyết cách mạng, tính khoa học và cách mạng triệt để của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Tác phẩm của Tổng Bí thư có giá trị lý luận căn bản và ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn sâu sắc, toàn diện đưa Việt Nam tiến tới một nước XHCN hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc.

Tác phẩm có sự đóng góp xứng đáng vào kho tàng lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH mà các nước trên thế giới đang hướng tới. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng đặt ra yêu cầu cần thiết phải học tập, quán triệt sâu sắc tác phẩm của đồng chí Tổng Bí thư.


[i] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 11, trang 92.

[ii] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, tập I, trang 39.