Thứ Năm, 29 tháng 5, 2025

Tại sao cần siết chặt quản lý Telegram ở Việt Nam?

 Nhiều nước trên thế giới ngày càng giám sát chặt chẽ hơn đối với ứng dụng nhắn tin Telegram vì ứng dụng này được cho là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia. Mới đây, khi cơ quan chức năng của Việt Nam đề nghị tiến hành các biện pháp kỹ thuật để chặn hoạt động của Telegram tại Việt Nam vì chúng đang được nhiều tổ chức tội phạm lợi dụng để thực hiện hành vi chống phá hoặc xâm phạm an ninh, trật tự thì ngay lập tức, Việt Tân- tổ chức chuyên chống phá Việt Nam lên ngay tút bài phản đối, thậm chí chúng còn rêu rao xuyên tạc về sự bất lực của nhà cầm quyền. Tuy nhiên, với bất cứ ai mong muốn sự bảo vệ của pháp luật và sự an toàn của bản thân, hẳn cũng sẽ mong muốn sử dụng nền tảng ứng dụng nhắn tin được đặt dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Đối với những nền tảng bất tuân sự kiểm soát của các cơ quan chức năng Việt Nam, không hoạt động dưới các quy định của pháp luật Việt Nam thì việc chặn hoạt động ở Việt Nam là hoàn toàn hợp lý.


Luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phẩn tử xấu


Có nhiều lý do khiến Telegram có thể bị chặn bởi các cơ quan chức năng Việt Nam.

Thứ nhất, nền tảng ứng dụng này không tuân thủ các yêu cầu về dữ liệu tại Việt Nam. Theo Nghị định 53/2022/NĐ-CP, các nền tảng xuyên biên giới phải: (1) Lưu trữ dữ liệu người dùng Việt Nam trong lãnh thổ Việt Nam. (2) Có đại diện pháp lý khi được yêu cầu.

Song, Telegram hiện không tuân thủ những yêu cầu này, họ không có văn phòng đại diện hoặc hệ thống pháp lý phối hợp hiệu quả tại Việt Nam. Telegram sử dụng mã hóa đầu-cuối (end-to-end encryption) cho các cuộc trò chuyện bí mật và không lưu trữ nội dung này trên máy chủ, điều này gây lo ngại về việc mất chủ quyền dữ liệu và khó khăn trong truy vết người dùng vi phạm pháp luật. Nhiều vụ lừa đảo sử dụng Telegram để dụ người dùng tham gia đầu tư tiền ảo, cá cược, sàn tài ảo… vì dễ tạo bot, nhóm kín, không bị kiểm duyệt. Bên cạnh đó, Telegram không chia sẻ dữ liệu với chính quyền Việt Nam nên các cơ quan an ninh quốc gia không thể truy nguyên IP, danh tính người tổ chức tội phạm, khó kiểm soát về nội dung phản động, bạo lực, chống phá nhà nước hoặc lừa đảo. Hiện nay, nhiều nhóm, kênh với hàng trăm ngàn thành viên đang sử dụng Telegram để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, gây mất an toàn cho người dân cũng như an ninh quốc gia.

Thứ hai, Telegram không đặt máy chủ, không nộp thuế, không tuân thủ luật quốc gia. Điều này sẽ tạo tiền lệ xấu cho các nền tảng công nghệ nước ngoài khác, đồng thời, làm chậm lại tiến trình phát triển các nền tảng số trong nước cũng như gây thất thu thuế cho nhà nước.

Hiện nay, nhiều quốc gia cũng đưa Telegram vào danh sách những ứng dụng bị cấm hoặc không khuyến khích sử dụng. Theo dữ liệu từ Surfshark và Netblocks, hiện có 31 quốc gia đã thực hiện lệnh cấm tạm thời hoặc vĩnh viễn đối với nền tảng này kể từ năm 2015[1]. Như tại Anh, các kênh Telegram bị cáo buộc đã được sử dụng để phối hợp các cuộc bạo loạn chống người nhập cư vào tháng 8, thúc đẩy các lời kêu gọi về quy định chặt chẽ hơn. Tây Ban Nha đã cấm ứng dụng này trong thời gian ngắn vào tháng 3 vì lo ngại về bản quyền. Na Uy cũng đã cấm các quan chức chính phủ sử dụng Telegram trên các thiết bị làm việc, với lý do rủi ro an ninh quốc gia. Tại Đức, chính phủ đã cân nhắc việc cấm ứng dụng này vào năm 2022 sau khi xác định các kênh có khả năng vi phạm luật ngôn từ kích động thù địch, cuối cùng đã phạt Telegram 5 triệu euro vì không tuân thủ các quy định của nước này. Mặc dù không thực hiện lệnh cấm trên toàn quốc, Na Uy đã cấm sử dụng Telegram trên các thiết bị làm việc đối với các bộ trưởng, thư ký nhà nước và cố vấn chính trị. Quyết định này được đưa ra vào tháng 3 năm 2023, dựa trên các lo ngại về an ninh quốc gia, cho rằng các nền tảng truyền thông xã hội có thể được sử dụng để phát tán thông tin sai lệch và tin tức giả mạo.

Nga đã thực hiện lệnh cấm Telegram trong hai năm từ năm 2018 đến năm 2020. Lệnh cấm được ban hành sau khi người đồng sáng lập kiêm giám đốc điều hành Telegram Pavel Durov từ chối tuân thủ yêu cầu cung cấp thông tin về một số người dùng nhất định.

Cả Trung Quốc và Iran đều cấm sử dụng Telegram trên đất nước họ. Telegram đã bị chặn ở Trung Quốc kể từ năm 2015. Còn Iran đã chặn Telegram kể từ năm 2018, sau các cuộc biểu tình nổ ra một năm trước đó. Chính phủ Iran cáo buộc Telegram tạo điều kiện cho các cuộc biểu tình này và khuyến khích người dân sử dụng các ứng dụng trong nước.

Có thể nói, nếu việc cấm hoặc siết chặt quản lý Telegram ở Việt Nam được thực thi, nó không những không thể hiện “sự bất lực của nhà cầm quyền” như Việt Tân rêu rao, mà ngược lại, nó cho thấy trách nhiệm bảo vệ an ninh xã hội, an toàn cho người dân của các cơ quan chức năng. Bên cạnh đó, nó cũng cho thấy việc thực thi pháp luật nghiêm minh của các cơ quan chính phủ nhằm đảm bảo an ninh mạng, an ninh xã hội và pháp luật, bảo vệ chủ quyền dữ liệu quốc gia đồng thời tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và có trách nhiệm giữa các nền tảng số.


[1] https://news.abplive.com/technology/telegram-ban-in-india-countries-block-restrict-list-global-scrutiny-security-pavel-durov-1713289

"MINH BẠCH HÓA": Qua vụ việc Tập đoàn Sơn Hải

Ngày 28-5, Ban Quản lý Dự án đầu tư xây dựng tỉnh Bình Phước thông tin vụ việc ông Vũ Ngọc Trụ, Tổ trưởng Tổ chuyên gia đấu thầu liên quan đến việc tư vấn lựa chọn nhà thầu dự án đường cao tốc TP HCM - Thủ Dầu Một - Chơn Thành (đoạn qua tỉnh Bình Phước) sử dụng chứng chỉ hành nghề đã hết hạn vào đầu tháng 10-2023 là chưa chính xác.

Theo Ban Quản lý Dự án đầu tư xây dựng tỉnh Bình Phước, chứng chỉ hành nghề của ông Trụ được cấp năm 2023, có thời hạn 5 năm, tức đến năm 2028 mới hết hạn.

Cùng ngày, ông Phạm Văn Trinh, Chánh Văn phòng UBND tỉnh Bình Phước, cho biết UBND tỉnh đã nhận được đơn kiến nghị của Tập đoàn Sơn Hải về gói thầu dự án đường cao tốc TP HCM – Thủ Dầu Một – Chơn Thành (đoạn qua địa bàn tỉnh). UBND tỉnh Bình Phước đã chỉ đạo các sở ngành kiểm tra, tham mưu để tỉnh trả lời cho Tập đoàn Sơn Hải theo quy định.

Sơ đồ dự án đường cao tốc TP HCM - Thủ Dầu Một - Chơn Thành



Theo báo cáo của Ban Quản lý Dự án đầu tư xây dựng tỉnh Bình Phước, gói thầu xây lắp xây dựng đường cao tốc TP HCM - Thủ Dầu Một - Chơn Thành, đoạn qua tỉnh Bình Phước do Công ty Cổ phần tư vấn Văn Phú (có địa chỉ ở TP Hà Nội) làm đơn vị tư vấn lập hồ sơ mời thầu và đánh giá hồ sơ dự thầu.

Ngày 6-5, Tổ chuyên gia (do đơn vị tư vấn thành lập) đã lập báo cáo đánh giá hồ sơ dự thầu điện tử (E-HSDT) gửi Ban Quản lý Dự án đầu tư xây dựng tỉnh Bình Phước và mở thầu công khai qua mạng. Có 5 doanh nghiệp xây dựng tham gia đấu thầu, trong đó có Tập đoàn Sơn Hải.

Kết quả đánh giá, E-HSDT của 5 nhà thầu đều hợp lệ, đủ năng lực và kinh nghiệm. Đơn vị trúng thầu là Liên danh cao tốc HCM-TDM-CT (gồm Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn, Công ty TNHH Thương mại dịch vụ và xây dựng NTV Thành Phát). Riêng 4 doanh nghiệp khác và Tập đoàn Sơn Hải bị "rớt thầu" do kết quả đánh giá về kỹ thuật không đạt.

Quá bức xúc, lãnh đạo Tập đoàn Sơn Hải đã gửi đơn đến UBND tỉnh Bình Phước trình bày đơn vị là nhà thầu có năng lực, kinh nghiệm đã trúng thầu và thi công các dự án cao tốc, công trình trọng điểm quốc gia. Khi tham gia gói thầu dự án đường cao tốc này, tập đoàn đã đáp ứng đầy đủ về mặt kỹ thuật của E-HSMT và cam kết bảo hành 10 năm (tăng 5 năm so với quy định E-HSMT), tiết kiệm chi phí duy tu, sửa chữa cho nhà nước trong quá trình khai thác.

Đáng chú ý, Tập đoàn Sơn Hải cho rằng tập đoàn mời giá dự thầu thấp nhất, có thể tiết kiệm cho ngân sách nhà nước gần 150 tỉ đồng nhưng chủ đầu tư lại lựa chọn đơn vị trúng thầu là Liên danh Cao tốc HCM-TDM-CT.

"Chủ đầu tư không chỉ loại chúng tôi mà còn loại 3 nhà thầu xếp hạng sau chúng tôi đều là những doanh nghiệp có tiếng trong lĩnh vực giao thông của Việt Nam" - lãnh đạo Tập đoàn Sơn Hải nói.

Tập đoàn Sơn Hải nhận thấy việc lựa chọn nhà thầu chưa phù hợp với E-HSMT và quy định của pháp luật về đấu thầu, gây ảnh hưởng đến quyền lợi, uy tín của doanh nghiệp và gây thất thoát ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, Tập đoàn Sơn Hải cho rằng qua kiểm tra các thành viên trong tổ chuyên gia trên trang hệ thống "chungchidauthau.mof.gov.vn" thì ông Vũ Ngọc Trụ, Tổ trưởng tổ chuyên gia có chứng chỉ hành nghề đấu thầu đã hết hạn vào ngày 18-10-2023 nên không đáp ứng được quy định của Luật Đấu thầu.

Do đó, Tập đoàn Sơn Hải đề nghị UBND tỉnh Bình Phước kiểm tra, rà soát lại năng lực của các thành viên trong Tổ chuyên gia đánh giá E-HSDT, thành lập tổ chuyên gia liên ngành, độc lập với chủ đầu tư và bên mời thầu để chấm lại E-HSDT, đảm bảo mục tiêu của công tác đấu thầu là cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế lập tổ chuyên gia liên ngành độc lập, chấm thầu lại để đảm bảo minh bạch.

Thứ Tư, 28 tháng 5, 2025

Những viên thuốc màu tro

 Sài Gòn, tháng Năm - Cái nóng bốc lên từ mặt đường như tro bụi hóa thân, thiêu đốt gót chân người nghèo đang chạy đôn đáo vì một viên thuốc. Giữa thành phố náo nhiệt này, một sự thật cay đắng đang rình rập sau ánh đèn trắng của bệnh viện, trong cái mùi thuốc sát trùng và tiếng bước chân vội vã nơi hành lang – có những viên thuốc không chữa lành, mà giết người.


Anh Phú – một người đàn ông đã đi qua gần nửa đời người với hai bàn tay chai sạn vì vôi vữa – kể lại câu chuyện về mẹ mình như kể một giấc mơ cũ rã rời. Mẹ anh từ miền Trung ra Sài Gòn điều trị ung thư dạ dày. Để có tiền chữa bệnh, anh bán cả mảnh đất tổ tiên để lại. Anh làm ngày, làm đêm, ăn cơm nguội, ngủ gốc cây. Mỗi viên thuốc lúc đó như là một tia hy vọng anh bám víu lấy giữa biển trời vô vọng.

Rồi bà mất. Và ít lâu sau, báo chí ầm lên vụ VN Pharma. Người ta nhập về gần chục nghìn hộp thuốc ung thư giả – thứ thuốc mà nếu không cứu được người thì cũng đừng nên giết họ. Anh Phú đọc tin mà tay run. "Không biết mẹ tôi có uống phải thuốc giả không, nhưng nếu có… thì tôi xin kiếp sau đừng làm người", anh thì thầm, mắt dán vào khoảng không vỡ vụn.

Giữa thời đại máy móc đo lường từng giọt máu, người ta vẫn không đo được lòng người. VN Pharma là một lát cắt. Họ làm giả hồ sơ nhập thuốc ung thư. Họ lách qua các cửa kiểm duyệt bằng những con dấu lạnh lùng và chữ ký vô cảm. Màu áo blouse, lẽ ra trắng tinh như lương tâm thầy thuốc, thì lúc này nhòe nhoẹt như áo lính đã qua trận.

Những viên thuốc – lẽ ra là liều cứu mạng – bỗng trở thành sát thủ thầm lặng. Mỗi giây chậm trễ vì thuốc giả là mỗi nhát cắt vào thời gian sống của bệnh nhân. Một bác sĩ già ở Bệnh viện Ung Bướu nói: "Có loại thuốc chỉ cần chậm nửa giờ là cơ hội sống tụt xuống 80%. Thuốc giả không chỉ là vô dụng, mà là sự lừa phỉnh độc ác." Có những cái chết không vì ung thư, mà vì hy vọng đặt nhầm chỗ.

Ở một nơi nào đó, trong căn phòng kín gió có máy lạnh chạy êm như ru, người ta ký phê duyệt những viên thuốc bằng giấy tờ photo. Không ai nhìn thấy bệnh nhân – những người đang nằm co quắp trong bệnh viện, tay run run cầm ly nước trông đợi một liều hóa chất. Không ai nghe tiếng rên khe khẽ lúc nửa đêm, hay tiếng con trẻ hỏi mẹ: “Ba mình đi đâu rồi?”. Cái chết không cần báo trước – nó lặng lẽ đi vào cơ thể qua đường tĩnh mạch, qua niềm tin đặt sai chỗ.

Cái lỗ hổng của luật pháp không nằm ở chữ nghĩa, mà nằm ở nơi con người ta đánh mất lòng trắc ẩn. Luật có quy định. Tội có án tử. Nhưng để kết tội, cần xác định hậu quả – mà hậu quả thì mơ hồ, vì ai dám chắc viên thuốc ấy là nguyên nhân? Bằng chứng thiếu. Nạn nhân chết rồi. Chỉ còn những hũ tro cốt lạnh lẽo. Tro – như màu của thuốc giả.

Người ta vẫn tiếp tục uống thuốc. Người bán vẫn tiếp tục livestream. Trẻ con uống thuốc kích ăn rồi béo phì, nội tạng hỏng mà cha mẹ vẫn nghĩ là “tăng trưởng tốt”. Người già uống thuốc bổ mà gan thận thối rữa. Nhưng ở đất nước này, thuốc vẫn được cấp số đăng ký bằng giấy. 22.000 sản phẩm, gấp đôi cả Singapore và Nhật. Nhiều đến mức nhầm lẫn là điều bình thường.

Bà Phạm Khánh Phong Lan – một đại biểu Quốc hội, đã lên tiếng. Nhưng tiếng nói của bà chìm trong biển quảng cáo thuốc tăng cân, thuốc mát gan, thuốc "công nghệ Canada" bán trên TikTok.

Chúng ta đã để y đức – thứ vốn thiêng liêng như lời thề Hippocrates – bị đem ra cân đo cùng tiền bạc. Chúng ta để cho hy vọng trở thành món hàng rao bán bằng livestream. Và chúng ta đang để những kẻ giết người núp bóng thầy thuốc, ngày đêm gieo rắc đau thương cho những gia đình khốn cùng.

Không ai chết hai lần, nhưng cái chết của lòng tin thì giết chết cả một dân tộc.

Thứ Ba, 27 tháng 5, 2025

Gương mặt thuê – tấm bình phong mới của tội phạm công nghệ cao

 Giữa làn sóng chuyển đổi số đang cuộn chảy mạnh mẽ trong ngành ngân hàng, một hình thức tội phạm mới đang âm thầm len lỏi: “cho thuê khuôn mặt để lừa đảo chuyển tiền.” Đây không còn là trò bịp bợm sơ khai qua tin nhắn hay cuộc gọi giả danh. Thứ mà chúng ta đang đối mặt là những bàn tay tội phạm được bọc trong vỏ bọc công nghệ, với những gương mặt thật… nhưng không phải vì chính nghĩa.


Đề án 06 về định danh điện tử đang mở ra tương lai số hóa minh bạch, góp phần thanh lọc hơn 200 triệu tài khoản ngân hàng trên toàn quốc. Trong đó, 113 triệu tài khoản đã được đối chiếu qua sinh trắc học – dấu hiệu tích cực cho thấy ngân hàng không còn là “đất diễn” cho các tài khoản ma.

Thế nhưng, ngay tại điểm sáng ấy, một bóng tối mới xuất hiện. Ông Phạm Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Thanh toán – Ngân hàng Nhà nước, cảnh báo: “Đã xuất hiện tình trạng các đối tượng cho thuê khuôn mặt để thực hiện hành vi lừa đảo chuyển tiền.”

Cách thức của bọn tội phạm rất tinh vi: chúng không tự đứng tên tài khoản, mà thuê người khác – thường là những người nhẹ dạ, cần tiền – mở tài khoản hộ và sẵn sàng “xuất hiện” khi cần xác thực khuôn mặt. Cái cúi đầu tưởng là xác minh đơn thuần, thực chất lại là cú gật đầu tiếp tay cho hành vi phi pháp.

Người cho thuê khuôn mặt – nghe có vẻ vô hại, thậm chí ngờ nghệch – nhưng trong chuỗi tội ác này, họ là mắt xích then chốt. Bởi sinh trắc học, với mục đích cao cả là bảo vệ an toàn tài chính cho người dân, lại bị chính con người lợi dụng làm “tấm bình phong sống”.

Khi máy không phân biệt được thiện ác, những khuôn mặt thật ấy vô tình biến thành “gương mặt giả” cho kẻ xấu.

Sắp tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ phối hợp cùng Bộ Công an truy tố những cá nhân cho thuê khuôn mặt, nâng mức phạt hành chính có thể lên tới 200 triệu đồng. Đây là một tín hiệu cứng rắn nhằm khép lại kẽ hở cho loại hình tội phạm “ẩn danh trong chính danh”.

Bên cạnh việc củng cố hệ thống sinh trắc học với hơn 55 triệu tài khoản doanh nghiệp đã được xác thực, NHNN cũng khẳng định: Doanh nghiệp không hợp tác xác thực sinh trắc học, giao dịch sẽ bị hạn chế nghiêm ngặt.

Đặc biệt, các tài khoản tổ chức có dấu hiệu hoạt động như hộ kinh doanh cá thể sẽ phải đối chiếu sinh trắc học người đại diện hợp pháp trong 6 tháng kể từ khi thành lập. Các ông chủ, bà chủ đừng nghĩ mình có thể “ngồi ghế sau” và mặc kệ ai đứng tên, bởi trách nhiệm pháp lý giờ đây gắn liền với từng dấu vân tay, từng ánh nhìn trước ống kính.

Nếu như trước đây, kẻ lừa đảo chỉ cần chiếc điện thoại, vài chiêu trò tâm lý học và sự nhẹ dạ, thì giờ đây chúng đã “công nghệ hóa” và “tổ chức hóa”, với mạng lưới tài khoản nuôi, thuê người thật làm bình phong và tận dụng từng lỗ hổng trong quy định sinh trắc học để chiếm đoạt tài sản.

Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ xây dựng kho dữ liệu các tài khoản bất thường, tích hợp cảnh báo khi người dân/doanh nghiệp chuyển tiền tới những tài khoản này. Một hàng rào kỹ thuật được dựng lên, nhưng trách nhiệm đầu tiên vẫn thuộc về ý thức cộng đồng.

Chúng ta đang bước vào thời đại mà mỗi gương mặt, mỗi dấu vân tay trở thành “chìa khóa” để mở kho tài sản. Nhưng cũng chính vì thế, nếu dễ dàng “cho mượn” nó – dù vì một khoản tiền hay sự thiếu hiểu biết – cái bạn đánh mất không chỉ là nhân thân, mà còn là danh dự, tương lai và cả tự do cá nhân.

Cho thuê khuôn mặt” không phải chuyện lạ lẫm ở phim viễn tưởng. Nó đang diễn ra giữa đời thường, như một màn kịch phản ánh méo mó nhân cách con người khi bị tiền bạc điều khiển.

Hãy tỉnh táo. Trong thế giới số, gương mặt bạn chính là bạn. Đừng để ai mượn danh bạn để gây họa cho người khác.

Tàu cao tốc và giấc mơ hiện đại hóa: Ai đủ tầm để đánh cược tương lai?

 Trên dải đất hình chữ S nhỏ bé, nghèo mà kiêu hãnh này, mỗi bước phát triển đều phải trả giá bằng máu, bằng trí, bằng tầm nhìn của những người dám nghĩ khác, làm khác. Ngày xưa, có một ông Kiệt – Võ Văn Kiệt, đứng giữa giông bão của thời cuộc, chống lại cả cái cũ mòn mỏi, để cho Việt Nam một đường dây 500kV – như một mạch máu điện chạy dọc cơ thể đất nước. Giờ đây, câu chuyện tàu cao tốc Bắc – Nam lại đặt chúng ta trước một ngã ba mới của lịch sử: liệu ai sẽ là người dám ký vào tương lai?


Dự án đường sắt cao tốc không phải là một mớ sắt thép tốc độ 350km/h, mà là phép thử về tư duy phát triển. Nó giống như việc dọn mình để bước vào một nền văn minh mới, nơi thời gian được tính bằng phút, chứ không phải những đêm dài trên chiếc ghế cứng tàu Thống Nhất. Nó là sự khẳng định: “Chúng ta có quyền được sống nhanh hơn, mạnh hơn và văn minh hơn”.

Thế nhưng, như bao điều lớn lao khác ở đất nước này, tàu cao tốc cũng đang bị lôi vào cái chợ của những cái đầu nhỏ nhoi – nơi người ta mặc cả tương lai bằng định kiến, bằng hoài nghi, và cả sự hằn học của những kẻ chưa từng dám làm điều gì ngoài chỉ trích.

VinSpeed – một cái tên gây tranh cãi – đề xuất góp 20% vốn cho dự án và xin Nhà nước cho vay 50 tỷ USD với lãi suất 0%. Một đề nghị khiến nhiều người nhảy dựng như thể họ vừa xin bán nước chứ không phải xây đường. Nhưng này các anh chị, hãy tỉnh táo: đó là đề xuất, chứ không phải sắc lệnh. Chưa có bút nào ký cả. Chưa ai trao vàng cho ai. Vẫn còn một chồng văn bản, một rừng họp hành, và cả một bộ máy chính trị sẽ nghiền ngẫm từng con số.

Người ta bảo: “Vay không lãi là đặc quyền!”. Nhưng nếu cam kết hoàn trả, nếu Nhà nước có quyền rút, quyền kiểm, quyền cắt, thì đó là đặc quyền hay là một canh bạc tài chính đầy rủi ro mà doanh nghiệp dám ngồi vào chiếu?

Cũng đừng quên, 12 tỷ USD là 20% mà VinSpeed nói sẽ “tất tay” – còn tổng tài sản của họ, theo Forbes, chưa đến 7 tỷ USD. Dám đặt cả sự tồn vong vào một canh bạc tốc độ cao, điều đó không nói lên khát vọng thì là gì? Chơi mà không run tay thì chỉ có kẻ điên hoặc kẻ có lý tưởng lớn.

Vấn đề khai thác quỹ đất hai bên tuyến đường cũng khiến bao người nhăn trán. Nhưng thử hỏi: có nhà đầu tư nào không nhìn thấy đất đai như một món đòn bẩy tài chính? Vấn đề không nằm ở chỗ “ai khai thác”, mà là “ai kiểm soát việc khai thác ấy?”. Đất không cho không, không ai xin chùa. Nếu doanh nghiệp phải trả tiền sử dụng đất, đóng thuế, làm hạ tầng, tạo ra việc làm, thúc đẩy du lịch – thì đó là chuyển hóa nguồn lực, chứ không phải tước đoạt tài nguyên.

Thế nhưng, rất nhiều người lại nhìn văn bản đề xuất như thể đó là một bản án tử cho ngân khố quốc gia. Một đất nước muốn đi lên thì cần có những người không ngại bước xuống mương mà kiểm tra móng cầu. Phê phán thì dễ, còn kiến tạo mới là thách thức thực sự.

Hãy nhớ rằng, giữa lòng chế độ này – một chế độ với những nguyên tắc kiểm soát và quy hoạch nghiêm ngặt – không một doanh nghiệp nào có thể một mình vẫy vùng mà vượt qua được hệ thống thể chế, pháp luật, và tư duy chính trị. Sẽ không có ai đủ sức “làm con tin Nhà nước”, trừ khi Nhà nước... ngủ quên. Mà tôi tin, những người ngồi ở Nguyễn Cảnh Chân chưa từng ngủ quên đâu!

Và cuối cùng, chúng ta cũng cần chấp nhận một sự thật giản dị: doanh nghiệp không phải là tổ chức từ thiện. Họ cần có lãi. Có lãi mới sống, mới phát triển. Nhưng nếu cái lãi ấy đồng thời tạo ra một tuyến đường hiện đại, một chuỗi đô thị vệ tinh, hàng triệu việc làm, và một cú hích cho thế kỷ XXI – thì tại sao không chấp nhận cùng nhau chơi ván cờ lớn?

Tàu cao tốc không chỉ là một tuyến đường – nó là tuyên ngôn về cách ta nhìn tương lai. Và tương lai ấy không dành cho những cái đầu nhỏ toan tính, mà dành cho những ai đủ tầm nhìn, đủ bản lĩnh, và dám chịu trách nhiệm đến cùng.

Thứ Hai, 26 tháng 5, 2025

Tiền rơi giữa trời trắng

 Lâm Trực@

Sáng cuối tháng Năm, Sài Gòn nóng như một nỗi bức bối không thể gọi tên. Trong một căn phòng có cửa kính dày, những con số lạnh lùng được chốt hạ: tám trăm tỷ đồng – một con số không mang mùi mồ hôi hay vết tích máu – vừa được “thi hành xong”. Người ta nói như thế, gọn gàng, tỉnh bơ, như thể gom rác sau một buổi hội hè tan tác.

Tám trăm tỷ. Với nhiều người, đó là số tiền có thể dựng nên hàng ngàn ngôi nhà, cứu sống hàng vạn phận đời. Nhưng nó đã từng bị đẩy trôi như một mảnh lục bình vô định, theo một chữ ký, theo một ánh nhìn, theo sự lặng im đầy chủ ý của những kẻ đã từng ngồi trên đỉnh quyền lực.

Tên ông ta là Đinh La Thăng. Một thời người ta gọi tên ông ta với niềm tự hào. Giờ, cái tên ấy nằm gọn trong văn bản pháp lý, lạnh như phiến sắt dưới cơn mưa mùa hạ. Ông từng điều hành một trong những tập đoàn khổng lồ nhất nước – nơi dòng tiền cuồn cuộn như thác, và quyền lực, như một cơn say, làm lu mờ mọi giới hạn.

Năm ấy, người ta bảo phải lập một ngân hàng của riêng ngành dầu khí. Rồi bẻ lái. Ngân hàng Hồng Việt – một giấc mơ đã tắt ngay khi còn chưa kịp thở hơi đầu. Thay vào đó, ông Thăng – với đôi mắt biết rõ mọi điều nhưng lại cố tình làm ngơ – đưa cả tập đoàn rẽ hướng, dồn vốn vào Oceanbank. Một ngân hàng bé nhỏ, yếu ớt, đang run rẩy giữa cơn bão tài chính.

Không khảo sát. Không báo cáo. Không một lời xin ý kiến từ Chính phủ. Mọi thứ đều tự tiện. Ông ta ký – thẳng tay, dứt khoát, như một vị vua ký chiếu ân xá cho một tử tù. Nhưng kỳ thực, đó là lời tuyên tử cho tám trăm tỷ đồng của dân, chôn vùi trong cơn mê mang tài chính mà ông ta gọi là “chủ trương”.

Những kẻ bên dưới biết sai, đã báo. Nhưng ông không dừng. Những con chữ trong bản cáo trạng nói rõ: ông không điều chỉnh, cũng không chỉ đạo thoái vốn. Ông đã chọn con đường đó – con đường trơn trượt, dẫn tới vòng lao lý, nơi danh vọng chỉ còn là tiếng vọng mơ hồ.

Vụ án giờ đã khép. Cục Thi hành án Dân sự TP.HCM tuyên bố đã hoàn thành xong phần việc: tám trăm tỷ đồng đã “được thu hồi”. Nhưng liệu số tiền ấy có bao giờ trở về được đúng nơi nó nên thuộc về? Hay nó cũng chỉ là những đồng bạc méo mó, mệt mỏi, sau chuyến đi thăm thẳm qua những tầng quyền lực tối tăm?

Ngoài kia, gió vẫn thổi qua những khu tái định cư bỏ hoang. Ở một nơi nào đó, những đứa trẻ miền núi vẫn ăn cháo loãng thay cơm. Còn ở đây, giữa thành phố từng đêm không ngủ, người ta lật lại những vụ án như lật trang lịch cũ – hết vụ ông Thăng lại tới Vạn Thịnh Phát, hết trăm tỷ lại đến trăm ngàn tỷ.

Người ta vẫn tin vào công lý. Nhưng công lý không thể là thứ đợi tới lúc hạ màn rồi mới bước ra sân khấu. Công lý phải là tiếng nói ngay khi bàn tay đầu tiên chuẩn bị ký một lệnh chuyển tiền. Công lý, nên sống trong từng nhịp thở của đất nước, chứ không chỉ là tờ báo cáo khô khốc giữa mùa hè đầy lửa.

Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2025

Lại bày trò "Đánh lận con đen"

 Trên Trang Baotieng dân có đăng bài viết của Trương Nhân Tuấn ngày 20/5/2025 với tiêu đề “Việt Nam và Hoa kỳ đã “hòa giải” tới đâu rồi?”. Trong bài viết, Trương Nhân Tuấn cố tình hiểu sai, định hướng dư luận nhằm xuyên tạc, phá hoại tinh thần, chủ trương hoà giải, hoà hợp dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.


Nội dung bài viết, Trương Nhân Tuấn xuyên tạc bản chất và ý nghĩa của hoạt động kỷ niệm ngày 30/4 của nước ta. Y cho rằng: “Theo tôi, cuộc ăn mừng đình đám ngày 30 tháng 4 vừa qua đã khẳng định rằng Việt Nam “sòng phẳng thôi, mẹ nó, sợ gì””; hay những bài phát biểu, những bài hát được sử dụng nhân dịp mừng ngày 30/4 “Vẫn một luận điệu cực kỳ sắt máu: “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, “quét sạch quân xâm lược”, “diệt đế quốc Mỹ, phá tan bè lũ bán nước”, “vót chông xiên thây giặc Mỹ”” là việc Việt Nam không “không có ý định muốn hòa giải với Mỹ”. Đây là nhận định thiếu hiểu biết, cố tình xuyên tạc đối với chủ trương hoà giải, hoà hợp dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.

Những ngày kỷ niệm chiến thắng, dù ở bất kỳ quốc gia nào, đều mang nhiều ý nghĩa sâu sắc về mặt lịch sử, văn hóa, tinh thần và đạo đức. Việc kỷ niệm những ngày chiến thắng nhằm tưởng nhớ và tri ân, nhớ ơn những người đã hy sinh. Đây là dịp để tưởng niệm những anh hùng liệt sĩ, chiến sĩ, và nhân dân đã hy sinh xương máu vì độc lập, tự do. Đồng thời ghi nhận công lao, tôn vinh những cống hiến to lớn của quân và dân trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Qua đó, khơi dậy tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc. Chiến thắng là biểu tượng của ý chí quật cường, lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết. Việc tổ chức lễ kỷ niệm là dịp để thế hệ sau học hỏi, tự hào và ý thức hơn về trách nhiệm giữ gìn độc lập, hòa bình, giáo dục lịch sử cho thế hệ trẻ, giúp thế hệ trẻ hiểu rõ hơn về quá khứ, trân trọng hiện tại và có trách nhiệm với tương lai. Tránh nguy cơ quên lãng lịch sử hoặc nhìn nhận sai lệch về các sự kiện trọng đại, tạo động lực cho phát triển hiện tại và tương lai. Chiến thắng trong quá khứ là động lực tinh thần mạnh mẽ để vượt qua khó khăn trong hiện tại và xây dựng tương lai tốt đẹp hơn, là minh chứng rằng dân tộc có thể vượt qua mọi thử thách nếu đoàn kết và kiên cường. Những ngày này thường là dịp để tổ chức các hoạt động cộng đồng như diễu hành, thăm nghĩa trang liệt sĩ, triển lãm lịch sử, các chương trình nghệ thuật… tạo sự gắn kết xã hội. Do đó, không chỉ ở Việt Nam mà là ở tất cả các quốc gia khác trên thế giới mà đã từng trải qua chiến tranh và dành chiến thắng, bảo vệ nền độc lập của tổ quốc thì đều và nên tổ chức lễ kỷ niệm cho những ngày trọng đại đó.

Việc trong những bài phát biểu, những bài hát được sử dụng nhân dịp mừng ngày 30/4 vẫn sử dụng những câu từ như “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, “quét sạch quân xâm lược”, “diệt đế quốc Mỹ, phá tan bè lũ bán nước”… không có nghĩa và cũng không hề liên quan đến chủ trương hoà giải, hoà hợp dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Việc sử dụng những câu từ đó cũng không hề nói tới mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ hiện nay. Lịch sử là lịch sử, hiện tại là hiện tại. Chúng ta tôn trọng lịch sử, ghi nhận lịch sử, và đặc biệt là các lịch sử hào hùng, lịch sử chiến thắng thì cần được nhắc lại cho thế hệ sau noi theo. Những câu nói đó cũng không hàm ý chỉ trích lịch sử, quá khứ về một sai lầm của Mỹ ở Việt Nam. Ở đây, Trương Nhân Tuấn cố tình hiểu sai nhằm xuyên tạc, phá hoại tinh thần, chủ trương hoà giải, hoà hợp dân tộc của ta. Chúng ta cần tỉnh táo nhận diện vấn đề, không để những kẻ phản động xuyên tạc, dẫn dắt định hướng dư luận. Trong thời đại thông tin bùng nổ, khi mỗi cá nhân đều có thể trở thành người phát tán thông tin, thì việc giữ vững bản lĩnh chính trị và tỉnh táo trong nhận thức càng trở nên cấp thiết. Những thế lực phản động, cơ hội chính trị và các phần tử chống phá luôn lợi dụng các sự kiện nhạy cảm, những vấn đề xã hội để xuyên tạc, bóp méo sự thật, gieo rắc hoài nghi và kích động chia rẽ. Nếu chúng ta không đủ tỉnh táo, rất dễ bị cuốn vào dòng xoáy ấy mà đánh mất lập trường, niềm tin và sự đoàn kết vốn là nền tảng vững chắc của xã hội. Chúng ta cần chủ động nhận diện vấn đề một cách toàn diện, nhìn thẳng vào sự thật với tinh thần xây dựng, không né tránh nhưng cũng không mù quáng. Mỗi công dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, cần trang bị cho mình khả năng phân tích thông tin, kỹ năng phản biện, và bản lĩnh để không bị dẫn dắt bởi những luận điệu sai trái. Không để những kẻ phản động định hướng dư luận, cũng chính là bảo vệ sự thật, bảo vệ lòng tin và bảo vệ tương lai đất nước. Tỉnh táo không chỉ là sự lựa chọn cá nhân, mà còn là trách nhiệm tập thể trong công cuộc gìn giữ ổn định và phát triển bền vững của xã hội.

Thứ Bảy, 24 tháng 5, 2025

Phải chăng, nguyên nhân của hận thù đến từ chính sách (sau 1975) của nhà “cầm quyền”!?

 Nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2025), trên các trang mạng xã hội ở trong nước, cũng như ngoài nước, xuất hiện một số bài viết, bài bình luận liên quan vấn đề hòa giải, hòa hợp dân tộc với các ý kiến đa chiều khác nhau, thu hút sự quan tâm, chú ý của đông đảo các giai tầng xã hội, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước… Trên BBC Tiếng Việt News đăng tải có một số bài viết “Hòa hợp dân tộc: 100 tiếng nói đồng bào…”của Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai (viết tắt TS. Mai), gửi từ Sydney, Úc, chia sẻ những kết quả sơ bộ của một nghiên cứu độc lập, tập trung vào chủ đề hòa hợp dân tộc trong ba khía cạnh: hiện trạng, nguyên nhân và giải pháp (Theo TS. Mai, tất cả đều ẩn danh. Mọi liên tưởng chỉ là trùng lặp tình cờ và không chính xác).

Trong “Bài viết: Hòa giải đã lỡ, hòa hợp đang chờ”, có nêu “Hòa giải là buông súng. Hòa hợp là xóa bỏ hận thù. Luồng ý kiến chủ đạo cho rằng: hòa giải xảy khi các bên đang đánh nhau tự nguyện đồng ý đàm phán để chấm dứt xung đột. Đó là trường hợp của Mỹ và Việt Nam. Giữa những người Việt với nhau không hề có hòa giải. Cuộc chiến đã kết thúc năm 1975 bằng sức mạnh chứ không phải bằng thương lượng. Một bên toàn thắng. Vậy nên họ không cần hòa giải, mà chỉ là giải giáp. Thực ra, hòa hợp hòa giải chưa từng xuất hiện trong suốt mấy chục năm. Quá trình hòa giải – hòa hợp không xảy ra… Tuy nhiên, có nhiều người cho rằng, chính phủ Việt Nam đang đi đường tắt, chưa hòa giải mà đã đòi hòa hợp. Chưa “xóa bỏ hận thù” mà đã đòi “chung sống hòa thuận”. Như vậy là không thật tâm, thực dụng và ích kỷ. Với Việt Nam, hận thù không được hóa giải mà còn tăng thêm do những chính sách sai lầm sau ngày thắng trận, do chính sách sau chiến tranh 1975… Cơ hội hòa giải – hòa hợp đã bị bỏ lỡ ngay sau 1975. Tuy nhiên, hận thù và kỳ thị có khả năng di truyền xuyên thế hệ, những hận thù ấy chủ yếu nảy sinh sau cuộc chiến. Nguyên nhân của hận thù đến từ chính sách (sau 1975) của nhà “cầm quyền”… Việt Nam là một tình huống đặc biệt. Ở các nước khác, hận thù chủ yếu là do những gì xảy ra trong chiến tranh. Với Việt Nam, hận thù chủ yếu là do chính sách sau chiến tranh. Chúng ta chưa thực sự xóa bỏ được hận thù. Kết quả duy nhất của cuộc chiến là sự ra đời của một quốc gia thống nhất. Tuy nhiên, sự thiếu vắng một quá trình hòa hợp cộng thêm chính sách gây hận thù thời hậu chiến khiến nó trở thành một quốc gia, hai dân tộc…”!?

"Phải chăng"?

Với các vấn đề này, trước tiên phải khẳng định rằng, bản chất cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, chống lại ngoại xâm, giành độc lập, thống nhất đất nước. Việc kết thúc bằng chiến thắng quân sự là kết quả tất yếu của một cuộc đấu tranh chính nghĩa, giành lại độc lập, thống nhất, chứ không phải một cuộc nội chiến giành quyền lực đơn thuần giữa hai phe có thể “hòa giải”. Điều này khác với một cuộc nội chiến đơn thuần nơi các bên có thể cùng ngồi lại đàm phán để chia sẻ quyền lực. Thắng lợi năm 1975 là sự chấm dứt một cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, giành lại độc lập hoàn toàn cho dân tộc. Do đó, việc áp dụng định nghĩa “hòa giải là buông súng” theo nghĩa đàm phán giữa các bên ngang hàng để chấm dứt xung đột là đánh tráo khái niệm, không phù hợp với bản chất cuộc chiến ở Việt Nam. Chính vì vậy, ngay từ trước và trong chiến tranh, chủ trương củaChủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đề cao tinh thần đại đoàn kết dân tộc, coi đây là yếu tố then chốt dẫn đến thắng lợi. Tư tưởng “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” là xuyên suốt. Điều 11, Hiệp định Paris 1973 đã khẳng định “Ngay sau khi ngưng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ: Thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia…”. Điều này cho thấy chủ trương hòa giải, hòa hợp đã được đặt ra từ rất sớm, không phải đợi đến khi “quay lại chơi với Mỹ” Việt Nam mới thực hiện hòa giải, hòa hợp dân tộc. Sau năm 1975, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã kiên trì thực hiện chính sách hòa hợp dân tộc với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh”. Nghị quyết Đại hội Đảng XII và các văn kiện sau này đều nhấn mạnh “lấy mục tiêu chung xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia – dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để cùng nhau hướng tới tương lai”. Đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Đảng và Nhà nước luôn chủ trương cởi mở, khuyến khích kiều bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng đất nước, không phân biệt quá khứ. Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài 20 năm qua, vẫn còn nguyên ý nghĩa và giá trị. Ủy ban người Việt ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao là cơ quan chuyên trách thực hiện công tác này.

Đối với việc tổ chức, triển khai thực hiện chính sách về hòa giải, hòa hợp nhân đạo với người của chế độ cũNgay sau năm 1975, chính quyền cách mạng đã thực hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo đối với những người từng làm việc cho chế độ cũ, chỉ tiến hành cải tạo (học tập cải tạo) chứ không xét xử như tội phạm chiến tranh. Chính sách học tập cải tạo được chính quyền Việt Nam thực hiện với mục đích “giáo dục, cải tạo tư tưởng” để hòa nhập vào xã hội mới, chứ không phải để trả thù hay trừng phạt. Thời gian cải tạo cũng khác nhau tùy từng trường hợp, và phần lớn đã được trả tự do sau một thời gian nhất định. So với nhiều cuộc chiến tranh khác, chính sách này được đánh giá là nhân đạo hơn nhiều. Không có chính sách chính thức nào của Nhà nước Việt Nam về việc kỳ thị, phân biệt đối xử với những người từng thuộc chế độ cũ. Những trường hợp cụ thể có thể xảy ra trong thực tế là do nhận thức hoặc hành vi của một số cá nhân, không đại diện cho chủ trương chung. Ngược lại, Đảng và Nhà nước luôn khuyến khích, tạo điều kiện cho mọi người dân, không phân biệt quá khứ, đóng góp xây dựng đất nước. Hàng triệu người từng sống dưới chế độ cũ, hoặc con cháu họ, đã và đang hòa nhập hoàn toàn vào đời sống xã hội, trở thành những công dân tích cực, đóng góp vào sự phát triển của đất nước trên mọi lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục. Nhiều người đã đạt được những thành công rực rỡ, được Nhà nước và xã hội ghi nhận. Đây là một minh chứng rõ ràng cho tinh thần hòa giải, xóa bỏ hận thù.

Hơn thế nữa, tinh thần hòa giải, hòa hợp dân tộc, xóa bỏ hận thù là chủ trương xuyên suốt của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Ngay từ trước năm 1975, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc đã là kim chỉ nam. Sau năm 1975, Đảng và Nhà nước đã khẳng định rõ mục tiêu “xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; lấy mục tiêu chung xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia – dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để cùng nhau hướng tới.

Các chính sách kinh tế – xã hội sau 1975 (như cải tạo công thương nghiệp, hợp tác hóa) xuất phát từ định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa và những nhận thức ban đầu về xây dựng đất nước. Mặc dù có những sai lầm và hạn chế (ban đầu) dẫn đến khó khăn cho đời sống nhân dân, nhưng đó không phải là chính sách nhằm gây hận thù hay chia rẽ, mà là nỗ lực (dù có khuyết điểm) để xây dựng một nền kinh tế mới. Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng đã thừa nhận những sai lầm, hạn chế trong giai đoạn này và tiến hành công cuộc Đổi mới từ năm 1986.

Cho dù các thế lực thù địch có xuyên tạc, bóp méo, tuy nhiên, với Việt Nam không có chuyện “cơ hội hòa giải – hòa hợp đã bị bỏ lỡ ngay sau năm 75”. Bởi lẽ, mọi người thừa biết, quá trình hòa giải, hòa hợp không phải là một sự kiện diễn ra tức thì mà là một quá trình lịch sử lâu dài, cần thời gian để hàn gắn vết thương và xây dựng lòng tin. Trong bối cảnh Việt Nam, khái niệm “hòa giải” và “hòa hợp” mang tính đặc thù. Quá trình “hòa giải” và “hòa hợp” không chỉ là sự chấm dứt xung đột hay hòa nhập người từng ở phía đối lập, mà còn là quá trình hàn gắn vết thương lịch sử, xây dựng niềm tin, đoàn kết dân tộc để cùng nhau phát triển. Khái niệm “hòa hợp” trong bối cảnh Việt Nam không chỉ là sự “xóa bỏ hận thù” một cách tức thì, mà là một quá trình liên tục xây dựng sự đồng thuận, đoàn kết trên cơ sở lợi ích chung của quốc gia dân tộc. Nó đòi hỏi thời gian, sự kiên nhẫn và nỗ lực từ tất cả các phía. Mặc dù giai đoạn sau năm 1975 có những khó khăn và sai lầm (bước đầu) nhất định, nhưng không thể kết luận rằng “cơ hội đã bị bỏ lỡ”.  Ngược lại, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã kiên trì theo đuổi chủ trương này qua nhiều giai đoạn lịch sử. Chính vì vậy, một số cảm nhận cá nhân về việc “không còn vui nữa vì ở trong tù” là một trải nghiệm đau khổ, nhưng không thể lấy một vài trường hợp cá nhân để khái quát hóa toàn bộ quá trình hòa giải, hòa hợp dân tộc của cả một quốc gia. Mặc dù những di chứng tâm lý của chiến tranh có thể kéo dài và ảnh hưởng đến các thế hệ sau, nhưng việc cho rằng “hận thù và kỳ thị có khả năng di truyền” là một cách diễn giải quá mức và dễ gây hiểu lầm. Xã hội Việt Nam đang nỗ lực vượt qua quá khứ, hướng tới tương lai. Thế hệ trẻ ngày nay, dù có thể biết về những khó khăn của cha ông, nhưng không mang nặng “hận thù” hay “kỳ thị” như thế hệ trước.

Đối với sự trở về của kiều bào. Chính sách cởi mở, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng triệu người Việt Nam ở nước ngoài, bao gồm cả những người từng rời bỏ đất nước sau năm 1975, đã được tạo điều kiện thuận lợi để về thăm quê hương, đầu tư, kinh doanh, đóng góp vào sự phát triển của đất nước là minh chứng rõ ràng nhất cho tinh thần hòa hợp. là biểu hiện của sự bao dung. Việc đón tiếp các cựu lãnh đạo, sĩ quan chế độ cũ về Việt Nam, các nhân vật như nguyên Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ là một ví dụ điển hình cho thiện chí hòa hợp. Dù có những khác biệt về quan điểm và quá khứ, đại đa số người dân Việt Nam, cả trong và ngoài nước, đều hướng về nguồn cội, mong muốn một đất nước Việt Nam phát triển, hùng cường. Đây là nền tảng vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc.

Cái gọi là “chia sẻ kết quả sơ bộ nghiên cứu độc lập” của TS. Mai, mặc dù có thể phản ánh một góc nhìn cá nhân hoặc một phần nhỏ của thực tế lịch sử, nhưng việc khái quát hóa và quy chụp rằng “quá trình hòa giải – hòa hợp không xảy ra” và “hận thù tăng thêm do chính sách sai lầm sau 1975”… là một cách diễn giải thiếu khách quan, tạo ấn tượng không tốt, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và có thể dẫn đến sự hiểu lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Những nhận xét này là không đúng sự thật, phủ nhận tình hình thực tiễn về vấn đề hòa giải, hòa hợp dân tộc ở Việt Nam cần được lên án và bác bỏ./.

Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2025

Tên tội đồ

Đối tượng Nguyễn Văn Đài - SN: 1975, hiện đang tỵ nạn chính trị tại CHLB Đức

Đúng vào Ngày kỷ niệm 135 năm sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh (19 – 5 – 1890/19 – 5 – 2025), Nguyễn Văn Đài tung tin trên mạng: “Hôm nay 19/5 là sinh nhật của HCM, tội đồ của đất nước và dân tộc VN, là người Việt Nam duy nhất không nên được sinh ra”. Trước đó, Nguyễn Văn Đài cũng đã từng nhiều lần quy kết: “HCM không đem lại điều gì tốt đẹp cho dân”, “Hồ Chí Minh là tội đồ của dân tộc”…

Những sự thật không phải như vậy. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gắn liền với sự nghiệp cách mạng, với độc lập tự do, ấm no, hạnh phúc của đất nước và nhân dân Việt Nam. Đảng Cộng sản do Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện đã trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Con đường cách mạng vô sản, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội do Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta lựa chọn, tuyệt đối tin tưởng, vẫn đã, đang và tiếp tục vững vàng phát triển.

Công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhớ, tri ân, được quốc tế ngợi khen, đánh giá cao. Trong Điếu văn tại Lễ truy điệu trọng thể Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 9 – 9 – 1969, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam hết sức tự hào: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sống đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, Người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta khẳng định: “Hoài bão lớn nhất của Hồ Chủ tịch là Tổ quốc được giải phóng, nhân dân được hạnh phúc. Người nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành… Lúc còn sống, Người dành tất cả lòng hiền từ ấm áp cho đồng bào, con cháu, già, trẻ, gái, trai, miền Bắc, miền Nam, miền xuôi, miền ngược. Khi mất đi, Người còn “để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”. Chúng ta cũng nêu rõ: Hồ Chủ tịch là tượng trưng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vô sản… Là người học trò trung thành của Các Mác và Lê nin, Hồ Chủ tịch chẳng những là một nhà yêu nước vĩ đại, mà còn là một chiến sĩ xuất sắc trong phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc của thế kỷ XX.

Trong Từ điển Danh nhân văn hóa thế giới ghi rõ: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngọn cờ đầu của giải phóng dân tộc. Người đã dẫn dắt triệu triệu người Việt Nam cùng hàng ngàn triệu người nô lệ hơn 100 nước trên thế giới vùng lên giành độc lập tự do, chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới”.

Kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Tô Lâm vừa có bài viết quan trọng: “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân”. Bài viết khẳng định những công lao, đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với đất nước và nhân dân, nêu rõ tư tưởng và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soi đường, dẫn dắt dân tộc ta thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử về mọi mặt. Bài viết cũng thể hiện quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục kiên định với Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và bày tỏ sự tin tưởng: “Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục là nguồn năng lượng vô tận, giúp chúng ta vượt qua mọi thử thách, giành nhiều thắng lợi trong công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển”.

Lâu nay, chúng ta không lạ gì bản chất sai trái, gian manh, xấu xa, vô liêm sỉ của Nguyễn Văn Đài trong việc bịa đặt, xuyên tạc, chống phá Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Nguyễn Văn Đài từng nhiều lần phủ nhận công lao, tư tưởng Hồ Chí Minh, đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vì “đã dẫn đến hệ qu

ả tất yếu: nhà nước không còn là của dân mà trở thành công cụ cai trị của giới chóp bu CSVN”. Nguyễn Văn Đài còn khoe gặp gỡ với những người anh em, đồng nghiệp: “Chúng tôi đều là các chiến binh của Hội Anh Em Dân Chủ trong nhiều năm ở Việt Nam”. Và; “Chúng tôi vẫn cùng nhau đấu tranh bằng các hình thức khác nhau nhưng cùng với mục đích xóa bỏ độc tài, dân chủ hóa và canh Tân Việt Nam”. Y từng tuyên bố: “Lý tưởng cao đẹp và con đường chính nghĩa là đấu tranh xóa bỏ chế độ độc tài Cộng sản VN”. Nguyễn Văn Đài còn nhiều lần lăng mạ, xúc phạm đến người dân Việt Nam: “Những thằng Việt Nam tự nhận mình là “người chủ đất nước” hôm nay, ngoài việc phát biểu “đồng ý” ra chúng không thể đưa ra bất kỳ ý kiến nào, con bò còn đang làm tốt hơn chúng”. Y cũng liều lĩnh kêu gọi, kích động người dân chuẩn bị vũ khí, vùng lên biểu tình, chống đối: “30/4 kỷ niệm 50 năm toàn dân cùng đồng ca bản – tiến về sài gòn ta Cướp nhà mặt tiến, tiến về sài gòn ta cướp thành đô”. Y hô hào bạo lực: “Chúng ta phải diệt sạch lũ cộng con bán nước ở bất cứ nơi đâu trên cõi đời này”. Y xúi giục hành vi bạo lực bằng những cách làm cụ thể: “Chỉ cần nắm giữ 1 sư đoàn và nhân danh “thanh trừng những tên Tư sản đang núp bóng Vô sản”, 1 tướng quân đội hoàn toàn có khả năng đẩy Việt Nam vào cuộc khủng hoảng mới”.

Sơ qua vậy, cũng đã cho thấy những thông tin sai trái, xấu độc, những thủ đoạn vừa trắng trợn, vừa thâm độc của Nguyễn Văn Đài trong chống phá Việt Nam. Mục đích của Nguyễn Văn Đài là tìm mọi cách “hạ bệ” Chủ tịch Hồ Chí Minh, loại bỏ Đảng Cộng sản nhằm âm mưu xóa bỏ Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa, phá vỡ cuộc sống bình yên và ngày càng ấm no, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam. Vì vậy, chính Nguyễn Văn Đài trở thành tội đồ của nhân dân và dân tộc Việt Nam. Dĩ nhiên, nhân dân Việt Nam không ai tin, không ai nghe theo Nguyễn Văn Đài và mọi âm mưu, thủ đoạn của Nguyễn Văn Đài đều bị thất bại hoàn toàn. Qua đó nhân dân càng hiểu rõ công lao, tư tưởng, đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, càng thêm kính yêu Người, càng tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng quang vinh.

Bằng trách nhiệm, tình cảm với Chủ tịch Hồ Chí Minh, với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, chúng ta hãy phấn đấu làm tốt theo lời kêu gọi của Tổng Bí thư Tô lâm: mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân nguyện khắc ghi lời dạy của Bác, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, đoàn kết, chung sức đồng lòng vì mục tiêu chung”, nhằm góp phần đưa Tổ quốc và nhân dân đến với mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh như Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như nhân dân Việt Nam hằng mong ước và quyết tâm thực hiện thành công.