Nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2025), trên các trang mạng xã hội ở trong nước, cũng như ngoài nước, xuất hiện một số bài viết, bài bình luận liên quan vấn đề hòa giải, hòa hợp dân tộc với các ý kiến đa chiều khác nhau, thu hút sự quan tâm, chú ý của đông đảo các giai tầng xã hội, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước… Trên BBC Tiếng Việt News đăng tải có một số bài viết “Hòa hợp dân tộc: 100 tiếng nói đồng bào…”của Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai (viết tắt TS. Mai), gửi từ Sydney, Úc, chia sẻ những kết quả sơ bộ của một nghiên cứu độc lập, tập trung vào chủ đề hòa hợp dân tộc trong ba khía cạnh: hiện trạng, nguyên nhân và giải pháp (Theo TS. Mai, tất cả đều ẩn danh. Mọi liên tưởng chỉ là trùng lặp tình cờ và không chính xác).
Trong “Bài viết: Hòa giải đã lỡ, hòa hợp đang chờ”, có nêu “Hòa giải là buông súng. Hòa hợp là xóa bỏ hận thù. Luồng ý kiến chủ đạo cho rằng: hòa giải xảy khi các bên đang đánh nhau tự nguyện đồng ý đàm phán để chấm dứt xung đột. Đó là trường hợp của Mỹ và Việt Nam. Giữa những người Việt với nhau không hề có hòa giải. Cuộc chiến đã kết thúc năm 1975 bằng sức mạnh chứ không phải bằng thương lượng. Một bên toàn thắng. Vậy nên họ không cần hòa giải, mà chỉ là giải giáp. Thực ra, hòa hợp hòa giải chưa từng xuất hiện trong suốt mấy chục năm. Quá trình hòa giải – hòa hợp không xảy ra… Tuy nhiên, có nhiều người cho rằng, chính phủ Việt Nam đang đi đường tắt, chưa hòa giải mà đã đòi hòa hợp. Chưa “xóa bỏ hận thù” mà đã đòi “chung sống hòa thuận”. Như vậy là không thật tâm, thực dụng và ích kỷ. Với Việt Nam, hận thù không được hóa giải mà còn tăng thêm do những chính sách sai lầm sau ngày thắng trận, do chính sách sau chiến tranh 1975… Cơ hội hòa giải – hòa hợp đã bị bỏ lỡ ngay sau 1975. Tuy nhiên, hận thù và kỳ thị có khả năng di truyền xuyên thế hệ, những hận thù ấy chủ yếu nảy sinh sau cuộc chiến. Nguyên nhân của hận thù đến từ chính sách (sau 1975) của nhà “cầm quyền”… Việt Nam là một tình huống đặc biệt. Ở các nước khác, hận thù chủ yếu là do những gì xảy ra trong chiến tranh. Với Việt Nam, hận thù chủ yếu là do chính sách sau chiến tranh. Chúng ta chưa thực sự xóa bỏ được hận thù. Kết quả duy nhất của cuộc chiến là sự ra đời của một quốc gia thống nhất. Tuy nhiên, sự thiếu vắng một quá trình hòa hợp cộng thêm chính sách gây hận thù thời hậu chiến khiến nó trở thành một quốc gia, hai dân tộc…”!?
 |
| "Phải chăng"? |
Với các vấn đề này, trước tiên phải khẳng định rằng, bản chất cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, chống lại ngoại xâm, giành độc lập, thống nhất đất nước. Việc kết thúc bằng chiến thắng quân sự là kết quả tất yếu của một cuộc đấu tranh chính nghĩa, giành lại độc lập, thống nhất, chứ không phải một cuộc nội chiến giành quyền lực đơn thuần giữa hai phe có thể “hòa giải”. Điều này khác với một cuộc nội chiến đơn thuần nơi các bên có thể cùng ngồi lại đàm phán để chia sẻ quyền lực. Thắng lợi năm 1975 là sự chấm dứt một cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, giành lại độc lập hoàn toàn cho dân tộc. Do đó, việc áp dụng định nghĩa “hòa giải là buông súng” theo nghĩa đàm phán giữa các bên ngang hàng để chấm dứt xung đột là đánh tráo khái niệm, không phù hợp với bản chất cuộc chiến ở Việt Nam. Chính vì vậy, ngay từ trước và trong chiến tranh, chủ trương củaChủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đề cao tinh thần đại đoàn kết dân tộc, coi đây là yếu tố then chốt dẫn đến thắng lợi. Tư tưởng “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” là xuyên suốt. Điều 11, Hiệp định Paris 1973 đã khẳng định “Ngay sau khi ngưng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ: Thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia…”. Điều này cho thấy chủ trương hòa giải, hòa hợp đã được đặt ra từ rất sớm, không phải đợi đến khi “quay lại chơi với Mỹ” Việt Nam mới thực hiện hòa giải, hòa hợp dân tộc. Sau năm 1975, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã kiên trì thực hiện chính sách hòa hợp dân tộc với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh”. Nghị quyết Đại hội Đảng XII và các văn kiện sau này đều nhấn mạnh “lấy mục tiêu chung xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia – dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để cùng nhau hướng tới tương lai”. Đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Đảng và Nhà nước luôn chủ trương cởi mở, khuyến khích kiều bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng đất nước, không phân biệt quá khứ. Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài 20 năm qua, vẫn còn nguyên ý nghĩa và giá trị. Ủy ban người Việt ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao là cơ quan chuyên trách thực hiện công tác này.
Đối với việc tổ chức, triển khai thực hiện chính sách về hòa giải, hòa hợp nhân đạo với người của chế độ cũ. Ngay sau năm 1975, chính quyền cách mạng đã thực hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo đối với những người từng làm việc cho chế độ cũ, chỉ tiến hành cải tạo (học tập cải tạo) chứ không xét xử như tội phạm chiến tranh. Chính sách học tập cải tạo được chính quyền Việt Nam thực hiện với mục đích “giáo dục, cải tạo tư tưởng” để hòa nhập vào xã hội mới, chứ không phải để trả thù hay trừng phạt. Thời gian cải tạo cũng khác nhau tùy từng trường hợp, và phần lớn đã được trả tự do sau một thời gian nhất định. So với nhiều cuộc chiến tranh khác, chính sách này được đánh giá là nhân đạo hơn nhiều. Không có chính sách chính thức nào của Nhà nước Việt Nam về việc kỳ thị, phân biệt đối xử với những người từng thuộc chế độ cũ. Những trường hợp cụ thể có thể xảy ra trong thực tế là do nhận thức hoặc hành vi của một số cá nhân, không đại diện cho chủ trương chung. Ngược lại, Đảng và Nhà nước luôn khuyến khích, tạo điều kiện cho mọi người dân, không phân biệt quá khứ, đóng góp xây dựng đất nước. Hàng triệu người từng sống dưới chế độ cũ, hoặc con cháu họ, đã và đang hòa nhập hoàn toàn vào đời sống xã hội, trở thành những công dân tích cực, đóng góp vào sự phát triển của đất nước trên mọi lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục. Nhiều người đã đạt được những thành công rực rỡ, được Nhà nước và xã hội ghi nhận. Đây là một minh chứng rõ ràng cho tinh thần hòa giải, xóa bỏ hận thù.
Hơn thế nữa, tinh thần hòa giải, hòa hợp dân tộc, xóa bỏ hận thù là chủ trương xuyên suốt của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Ngay từ trước năm 1975, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc đã là kim chỉ nam. Sau năm 1975, Đảng và Nhà nước đã khẳng định rõ mục tiêu “xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; lấy mục tiêu chung xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia – dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để cùng nhau hướng tới.
Các chính sách kinh tế – xã hội sau 1975 (như cải tạo công thương nghiệp, hợp tác hóa) xuất phát từ định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa và những nhận thức ban đầu về xây dựng đất nước. Mặc dù có những sai lầm và hạn chế (ban đầu) dẫn đến khó khăn cho đời sống nhân dân, nhưng đó không phải là chính sách nhằm gây hận thù hay chia rẽ, mà là nỗ lực (dù có khuyết điểm) để xây dựng một nền kinh tế mới. Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng đã thừa nhận những sai lầm, hạn chế trong giai đoạn này và tiến hành công cuộc Đổi mới từ năm 1986.
Cho dù các thế lực thù địch có xuyên tạc, bóp méo, tuy nhiên, với Việt Nam không có chuyện “cơ hội hòa giải – hòa hợp đã bị bỏ lỡ ngay sau năm 75”. Bởi lẽ, mọi người thừa biết, quá trình hòa giải, hòa hợp không phải là một sự kiện diễn ra tức thì mà là một quá trình lịch sử lâu dài, cần thời gian để hàn gắn vết thương và xây dựng lòng tin. Trong bối cảnh Việt Nam, khái niệm “hòa giải” và “hòa hợp” mang tính đặc thù. Quá trình “hòa giải” và “hòa hợp” không chỉ là sự chấm dứt xung đột hay hòa nhập người từng ở phía đối lập, mà còn là quá trình hàn gắn vết thương lịch sử, xây dựng niềm tin, đoàn kết dân tộc để cùng nhau phát triển. Khái niệm “hòa hợp” trong bối cảnh Việt Nam không chỉ là sự “xóa bỏ hận thù” một cách tức thì, mà là một quá trình liên tục xây dựng sự đồng thuận, đoàn kết trên cơ sở lợi ích chung của quốc gia dân tộc. Nó đòi hỏi thời gian, sự kiên nhẫn và nỗ lực từ tất cả các phía. Mặc dù giai đoạn sau năm 1975 có những khó khăn và sai lầm (bước đầu) nhất định, nhưng không thể kết luận rằng “cơ hội đã bị bỏ lỡ”. Ngược lại, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã kiên trì theo đuổi chủ trương này qua nhiều giai đoạn lịch sử. Chính vì vậy, một số cảm nhận cá nhân về việc “không còn vui nữa vì ở trong tù” là một trải nghiệm đau khổ, nhưng không thể lấy một vài trường hợp cá nhân để khái quát hóa toàn bộ quá trình hòa giải, hòa hợp dân tộc của cả một quốc gia. Mặc dù những di chứng tâm lý của chiến tranh có thể kéo dài và ảnh hưởng đến các thế hệ sau, nhưng việc cho rằng “hận thù và kỳ thị có khả năng di truyền” là một cách diễn giải quá mức và dễ gây hiểu lầm. Xã hội Việt Nam đang nỗ lực vượt qua quá khứ, hướng tới tương lai. Thế hệ trẻ ngày nay, dù có thể biết về những khó khăn của cha ông, nhưng không mang nặng “hận thù” hay “kỳ thị” như thế hệ trước.
Đối với sự trở về của kiều bào. Chính sách cởi mở, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng triệu người Việt Nam ở nước ngoài, bao gồm cả những người từng rời bỏ đất nước sau năm 1975, đã được tạo điều kiện thuận lợi để về thăm quê hương, đầu tư, kinh doanh, đóng góp vào sự phát triển của đất nước là minh chứng rõ ràng nhất cho tinh thần hòa hợp. là biểu hiện của sự bao dung. Việc đón tiếp các cựu lãnh đạo, sĩ quan chế độ cũ về Việt Nam, các nhân vật như nguyên Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ là một ví dụ điển hình cho thiện chí hòa hợp. Dù có những khác biệt về quan điểm và quá khứ, đại đa số người dân Việt Nam, cả trong và ngoài nước, đều hướng về nguồn cội, mong muốn một đất nước Việt Nam phát triển, hùng cường. Đây là nền tảng vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc.
Cái gọi là “chia sẻ kết quả sơ bộ nghiên cứu độc lập” của TS. Mai, mặc dù có thể phản ánh một góc nhìn cá nhân hoặc một phần nhỏ của thực tế lịch sử, nhưng việc khái quát hóa và quy chụp rằng “quá trình hòa giải – hòa hợp không xảy ra” và “hận thù tăng thêm do chính sách sai lầm sau 1975”… là một cách diễn giải thiếu khách quan, tạo ấn tượng không tốt, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và có thể dẫn đến sự hiểu lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Những nhận xét này là không đúng sự thật, phủ nhận tình hình thực tiễn về vấn đề hòa giải, hòa hợp dân tộc ở Việt Nam cần được lên án và bác bỏ./.