Nguyễn Ngọc Già lú lẫn với "Triết
lý của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam tồi tệ hơn Năm Cam."Nguyễn Ngọc Già đã lợi
dụng các phát biểu và hoạt động của lãnh tụ Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo
Đảng, Nhà nước hay các sai phạm của một số tổ chức, cá nhân để viết bài chống
phá Đảng, Nhà nước, nói xấu chế độ, bôi nhọ, hạ thấp uy tín danh dự của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Chẳng ai lạ: Nguyễn Ngọc Già (bút
danh của Nguyễn Đình Ngọc) là đối tượng phản động, đã từng bị bắt năm 2014 và kết
án 04 năm tù giam, 03 năm quản chế do phạm tội “tuyên truyền chống phá Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Sau khi ra tù, “ngựa quen đường cũ”, Già
tiếp tục có các bài viết xuyên tạc chủ trương, đường lối chính sách của Đảng,
Nhà nước; bôi nhọ, hạ thấp uy tín, danh dự Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh đạo Đảng,
Nhà nước; cổ súy cho các hành vi gây rối trật tự công cộng, v.v. Cho nên, bài
viết của Già đăng trên Facebook Chân Trời Mới Media là bài viết sặc mùi phản động,
chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam một cách cuồng điên.
Việc Già so sánh Chủ tịch Hồ Chí
Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước với những đối tượng giang hồ cộm cán
như Năm Cam hay một số đối tượng phản động, thù địch là sự so sánh khiên cưỡng,
phi lý của những kẻ thiếu hiểu biết, thiếu suy nghĩ. Già coi câu nói của Năm
Cam là “triết lý”, rồi đem “triết lý” ấy so sánh với phát biểu của các đồng chí
lãnh đạo các cơ quan Trung ương cho thấy Già quá “ấu trĩ”. Tre Việt nói lại cho
Già biết và ghi nhớ: Lãnh tụ Hồ Chí Minh là người suốt đời hy sinh phấn đấu cho
sự nghiệp giải phóng dân tộc, luôn đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết; mọi
chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam đều
hướng đến một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, giàu đẹp, người dân có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Còn câu nói của Năm Cam chỉ là câu nói của kẻ vi
phạm pháp luật Việt Nam, không phải “triết lý” đại diện cho một quốc gia, dân tộc
và trên thực tế chưa bao giờ được xã hội và nhân dân Việt Nam chấp nhận.
Nực cười hơn khi Già coi những chỉ
đạo của Đảng và Nhà nước trong phòng, chống dịch Covid-19 hay hành động sai phạm
của Công ty Việt Á là “triết lý” bẩn thỉu. Việc Công ty Việt Á nâng khống giá
kit test để trục lợi là sai phạm của một số cá nhân bị lóa mắt vì đồng tiền chứ
không phải sai phạm của hệ thống chính trị, của chế độ và đó cũng không phải là
“triết lý” của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Việc Đảng và Nhà nước Việt Nam chỉ đạo
các cơ quan chức năng thực hiện các biện pháp cấp bách trong phòng, chống dịch
Covid-19 đều nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản của nhân dân.
Vậy nên, Tre Việt đề nghị các cơ
quan chức năng Việt Nam cần xử lý nghiêm các hoạt động lợi dụng mạng xã hội để
chống phá Đảng, Nhà nước, bôi nhọ, nói xấu, hạ thấp uy tín các đồng chí lãnh đạo
Đảng, Nhà nước Việt Nam như hoạt động của Nguyễn Ngọc Già./.
Gần tám thập
kỷ xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và chiến thắng, Quân đội nhân dân (QĐND)
Việt Nam thực sự là một Quân đội anh hùng, “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó
khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”; được Đảng và Nhân dân ta hết
mực tin yêu, bạn bè ngưỡng mộ và ngay cả kẻ thù cũng phải nể phục. Tuy nhiên,
thời gian qua vẫn có những luận điệu xuyên tạc nhằm hạ thấp, bôi nhọ truyền thống
tốt đẹp của Quân đội ta.
Nhiều luận điệu xuyên tạc cần phê phán, bác bỏ
Trong quá
trình thực hiện âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “Diễn
biến hòa bình”, các thế lực thù địch luôn tập trung xuyên tạc những giá trị
truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam, nhất là xuyên tạc về lòng trung thành của
quân đội với Đảng, với Nhà nước và Nhân dân; xuyên tạc mối quan hệ đoàn kết nội
bộ, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế của Quân đội với những lời lẽ hết sức
phản động, phản khoa học nhằm thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội,
hòng làm suy giảm sức mạnh chiến đấu của Quân đội, làm phai mờ hình ảnh tốt đẹp
của “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế.
Sự xuyên tạc
đó được thể hiện ở một số luận điệu, như: “Lực lượng vũ trang (LLVT) chỉ trung
thành với Tổ quốc và Nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức, lực
lượng nào”; “xóa bỏ quy định LLVT phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”;
“Quân đội là chỉ của quốc gia dân tộc” và có nhiệm vụ “bảo vệ sự toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia và phục vụ nhân dân chứ không phải bảo vệ chế độ nào”(!). Khi
Quân đội ta thực hiện chức năng, nhiệm vụ đội quân công tác, tiến hành công tác
dân vận, giúp đỡ nhân dân giải quyết các “điểm nóng” về xã hội, đấu tranh chống
việc lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo thì các thế lực lại xuyên tạc, vu
cáo “Quân đội cứu Đảng, đàn áp nhân dân”,… Lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm
của một số cán bộ, chiến sĩ trong quan hệ với nhân dân, các thế lực thù địch ra
sức kích động nhằm chia rẽ mối quan hệ giữa Quân đội với nhân dân: “Tuy gọi là
QĐND song thực chất chỉ là công cụ bạo lực của một tập đoàn cầm quyền, không phải
là quân đội mang lại lợi ích cho dân”(!)… Chưa dừng lại ở đó, các thế lực
thù địch còn xuyên tạc nghĩa vụ quốc tế vô sản cao cả của QĐND Việt Nam đối với
cách mạng Lào và Campuchia trong thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc, chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc trước đây. Chúng xuyên tạc việc QĐND Việt Nam cử lực lượng
tình nguyện làm nhiệm vụ quốc tế cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt
chủng lại là “hành động xâm lược”(!).
Những luận điệu
trên được các thế lực thù địch “nhai đi nhai lại” nhiều lần, do vậy, nếu không
tỉnh táo, sáng suốt, một bộ phận người dân, nhất là giới trẻ, có thể bị tiêm
nhiễm những luận điệu phản động đó. Vì vậy, chúng ta phải kiên quyết phê phán,
đấu tranh.
Bảo vệ và phát huy các giá trị truyền thống
tốt đẹp của Quân đội
Trong điều kiện
mới, trước sự tác động của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, trước yêu
cầu, nhiệm vụ của cách mạng, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam XHCN, chúng ta cần chú trọng nâng cao hiệu quả phòng, chống sự xuyên tạc của
các thế lực thù địch về những giá trị truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam nhằm
giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta và “Bộ đội
Cụ Hồ”. Trong đó cần quan tâm một số vấn đề sau:
Một
là, tăng cường sự quản lý của Nhà nước trong việc giữ vững và phát huy
bản chất, truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam, của “Bộ đội Cụ Hồ”. Để
phát huy vai trò của Nhà nước trong giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống
của QĐND Việt Nam, của “Bộ đội Cụ Hồ”, Nhà nước cần ban hành và tổ chức thực hiện
có hiệu quả các chủ trương, chính sách trong xây dựng Quân đội, thực hiện tốt
vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước đối với Quân đội. Trong đó, Nhà nước cần
có chính sách bảo đảm tốt hơn về vật chất, tinh thần; về trang bị, phương tiện
kỹ thuật cho Quân đội đáp ứng yêu cầu xây dựng QĐND Việt Nam trong tình hình mới.
Thực hiện tốt chính sách hậu phương Quân đội; chính sách đối với những người có
công với cách mạng, thương binh và gia đình liệt sĩ; chính sách tạo điều kiện
việc làm cho quân nhân xuất ngũ,…
Hai
là, tăng cường sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng trong giữ vững
và phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam, của “Bộ đội Cụ Hồ”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một Quân đội
nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”. Vì vậy, sự lãnh đạo,
giáo dục, rèn luyện của Đảng là nhân tố quyết định sự trưởng thành và chiến thắng
của Quân đội ta, bảo đảm giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của
QĐND Việt Nam, của “Bộ đội Cụ Hồ” trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Để bản chất,
truyền thống của QĐND Việt Nam tiếp tục được giữ vững và phát huy trong thời kỳ
mới, phải chăm lo xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong quân đội trong sạch, vững
mạnh; tăng cường rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội thực sự là
hạt nhân, nòng cốt trong việc giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống của
QĐND Việt Nam, của “Bộ đội Cụ Hồ”.
Ba là,
phát huy tốt vai trò của đồng bào các dân tộc trong giữ vững và phát
huy bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của “Bộ đội Cụ Hồ”. “Quân với
dân như cá với nước” là một cách thể hiện rất độc đáo trong tư tưởng của Hồ Chí
Minh về mối quan hệ mật thiết giữa Quân đội và nhân dân Việt Nam, bắt nguồn từ
trong bản chất, truyền thống của Quân đội cách mạng do Đảng ta giáo dục và rèn
luyện. Trong tình hình hiện nay, trước những tác động của điều kiện kinh tế-xã
hội, nhất là trước những tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường cũng như sự
chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng chiến lược “Diễn biến hòa
bình” nhằm chia rẽ Quân đội với nhân dân, thì sự thương yêu, giúp đỡ của nhân
dân đối với Quân đội càng có ý nghĩa quan trọng đối với việc giữ vững và phát
huy bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của “Bộ đội Cụ Hồ”.
Bốn
là, phát huy vai trò của Quân đội trong giữ vững và phát huy bản chất,
truyền thống của QĐND Việt Nam, của “Bộ đội Cụ Hồ”. Vấn đề cơ bản có tính
quyết định trực tiếp là sự nỗ lực phấn đấu rèn luyện của toàn thể cán bộ, chiến
sĩ trong thực tiễn xây dựng, chiến đấu, công tác và lao động sản xuất của Quân
đội trong mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh, mọi nhiệm vụ. Việc giữ vững và phát huy
bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của “Bộ đội Cụ Hồ” là công việc của
chính mỗi cán bộ, chiến sĩ; thể hiện cụ thể trong thực tiễn huấn luyện, sẵn
sàng chiến đấu, chiến đấu, công tác và lao động sản xuất, cũng như trong sinh
hoạt đời thường của mỗi quân nhân. Để giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống
của QĐND Việt Nam, của “Bộ đội Cụ Hồ” đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ phải nỗ lực
rèn luyện, phấn đấu thực hiện tốt Cuộc vận động Phát huy truyền thống, cống hiến
tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới.
Năm
là, tích cực triển khai đấu tranh phòng, chống sự xuyên tạc của
các thế lực thù địch về những giá trị truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam, của
“Bộ đội Cụ Hồ”. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của các cấp ủy
đảng trong đấu tranh phòng, chống các quan điểm thù địch, sai trái, xuyên tạc,
phủ nhận bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của “Bộ đội Cụ Hồ”. Bảo đảm
các hoạt động đấu tranh theo đúng định hướng của Đảng, chặt chẽ về nguyên tắc,
vững vàng về quan điểm chính trị, sâu sắc về lý luận khoa học, sắc bén trong
phương pháp và đạt hiệu quả cao. Huy động lực lượng rộng rãi trong các cơ quan
nghiên cứu lý luận, các cơ quan nghiên cứu khoa học, các cơ quan báo chí, truyền
thông,… tiến công chống quan điểm thù địch, sai trái xuyên tạc, phủ nhận bản chất,
truyền thống của QĐND Việt Nam, của “Bộ đội Cụ Hồ”. Bên cạnh đó, cần chủ động
cung cấp đầy đủ những thông tin liên quan đến vấn đề đấu tranh dưới nhiều hình
thức để kịp thời định hướng đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận
bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của “Bộ đội Cụ Hồ”./.
Bảo đảm an ninh môi trường tại các làng nghề, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển với bảo vệ môi trường đang là yêu cầu cấp bách được đặt ra, đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với những giải pháp khoa học, đồng bộ, góp phần phát triển bền vững các làng nghề.
1-Nước ta có hệ thống làng nghề phong phú, đa dạng, trong đó có nhiều làng nghề truyền thống lâu đời với lịch sử phát triển hàng trăm năm, gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Làng nghề là trung tâm sản xuất, hội tụ tinh hoa, kỹ thuật chế tạo các sản phẩm thủ công; là trung tâm văn hóa và cũng là địa điểm buôn bán, giao lưu văn hóa của vùng, khu vực. Làng nghề cũng chính là nơi quy tụ những nghệ nhân, thợ thủ công có tay nghề cao mà danh tiếng của họ đã gắn liền với sản phẩm được sản xuất. Các mặt hàng của làng nghề thường rất phong phú, đa dạng, không chỉ phục vụ nhu cầu sản xuất, sinh hoạt hằng ngày, mà còn phục vụ đời sống tinh thần của người dân trong vùng cũng như đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của nhân dân các khu vực lân cận.
Làng nghề nước ta được phân bố tập trung chủ yếu tại đồng bằng sông Hồng (chiếm khoảng 60%), còn lại ở miền Trung và miền Nam. Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, năm 2017, cả nước có 5.411 làng nghề và làng có nghề, trong đó có1.864 làng nghề, làng nghề truyền thống và 115 nghề truyền thống được công nhận(1); riêng Hà Nội có 1.350 làng nghề, trong đó có hơn 300 làng nghề truyền thống tiêu biểu. Các làng nghề của Hà Nội cũng hội tụ đủ các nhóm nghề, như gốm sứ, sơn mài, vàng bạc, rèn, thêu ren, lụa, mây tre đan, dệt, giấy, tranh dân gian, gỗ, đá, trồng hoa, cây cảnh... Kỹ thuật, công nghệ, quy trình sản xuất được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và đang từng bước được hiện đại hóa khi ứng dụng khoa học, côngnghệ.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách phát triển làng nghề; quan tâm, hỗ trợ các làng nghề áp dụng thành tựu khoa học, công nghệ vào hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao năng lực sản xuất, hiệu quả. Nhờ vậy, các làng nghề và các cụm làng nghề mới không ngừng được phát triển, kinh doanh mở rộng, đạt được mức tăng trưởng ấn tượng. Nhiều làng nghề đã có bước chuyển mình bắt kịp với xu thế của thời đại. Sự phát triển của làng nghề không những góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc, mà còn là nhân tố thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đóng góp quan trọng vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, trực tiếp giải quyết việc làm, góp phần tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động. Sản phẩm hàng hóa của các làng nghề nước ta hiện có mặt ở hơn 163 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng. Hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu ngày càng được mở rộng, vươn tới những thị trường lớn trên thế giới, như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu,... Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt 2,35 tỷ USD, tăng 0,6 tỷ USD so với năm 2017; trong đó có một số mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn, như các sản phẩm gốm sứ đạt 539 triệu USD; sản phẩm mây, tre, cói, thảm đạt 484 triệu USD; sản phẩm thêu, dệt thủ công đạt 139 triệu USD. Mặc dù đại dịch COVID-19 gây nhiều trở ngại, khó khăn, nhưng 7 tháng đầu năm 2020, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gốm sứ vẫn đạt 309 triệu USD, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 2019; sản phẩm mây tre cói thảm đạt 250 triệu USD tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2019; sản phẩm thêu, dệt thủ công đạt 90 triệu USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2019.
2- Bên cạnh những biến đổi và phát triển theo hướng tích cực, hiện nay, các làng nghề cũng đang phải đối diện với nhiều nguy cơ, thách thức cần giải quyết để bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững. Một trong những yêu cầu hàng đầu là phát triển làng nghề nhưng không để môi trường bị ô nhiễm, không đánh mất bản sắc văn hóa độc đáo. Thực tế cho thấy, xử lý ô nhiễm môi trường các làng nghề đã và đang là vấn đề nhức nhối, nan giải. Tại nhiều làng nghề, các chất thải phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đe dọa sự phát triển bền vững, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân và trở thành vấn đề bức xúc trong cộng đồng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây bất ổn xã hội; là nguyên nhân gây ra những vụ việc tranh chấp, khiếu kiện kéo dài, tụ tập đông người. Các thế lực thù địch, phản động cũng lợi dụng sự cố ô nhiễm môi trường để tung tin xuyên tạc, bịa đặt sai sự thật, phủ nhận đường lối phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước hoặc kích động chống phá Đảng, Nhà nước, gây ra những vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự.
Các làng nghề nước ta phần lớn có quy mô sản xuất nhỏ, bố trí phân tán, xen kẽ trong khu vực dân cư, hộ gia đình dẫn đến việc xử lý ô nhiễm môi trường gặp không ít khó khăn, nhất là ở khâu quy hoạch. Kết quả khảo sát tại khu vực sản xuất của một số làng nghề cho thấy, tình trạng ô nhiễm môi trường ở mức khá cao, tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người lao động, như “95% người lao động có nguy cơ tiếp xúc với bụi, 85,9% có nguy cơ tiếp xúc với nhiệt, 59,6% tiếp xúc với hóa chất. Kết quả khảo sát 52 làng nghề điển hình trong cả nước cho thấy trong số đó có 46% làng nghề có môi trường bị ô nhiễm nặng, 27% ô nhiễm vừa, số còn lại ô nhiễm nhẹ”. Tại Hà Nội, địa phương có số lượng làng nghề lớn nhất cả nước, kết quả khảo sát, lấy mẫu và phân tích môi trường của Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội tại 65 làng nghề cho thấy, 60/65 làng nghề bị ô nhiễm môi trường, trong đó có ô nhiễm môi trường nước, môi trường không khí, môi trường đất. Hầu hết các làng nghề đều chưa có hệ thống hạ tầng đạt yêu cầu, nhất là hệ thống cấp, thoát nước thải thiếu đồng bộ. Phần lớn nước thải từ các làng nghề chưa qua xử lý thải ra môi trường ao, hồ, sông, kênh, mương với mức độ ô nhiễm cao. Tại các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, lượng nước thải sản xuất có nơi ước tính lên đến 7.000 m3/ngày. Không chỉ nguồn nước, tình trạng ô nhiễm môi trường không khí, tiếng ồn và ý thức bảo vệ môi trường của người dân chưa tốt đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế - xã hội và dân sinh(4). Tại các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ, nước thải có độ ô nhiễm hữu cơ cao. Ô nhiễm chất vô cơ tại các làng nghề dệt nhuộm, tái chế giấy tạo ra nước thải có hàm lượng cặn lớn; làng nghề tái chế kim loại có hàm lượng kim loại nặng độc hại vượt tiêu chuẩn cho phép hàng chục lần. Hầu hết chất thải rắn ở các làng nghề vẫn chưa được thu gom xử lý, mà xả thẳng vào môi trường, gây ô nhiễm nghiêm trọng không khí và các nguồn nước mặt, nước ngầm tại các địa phương.
Ô nhiễm môi trường làng nghề đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, sức khỏe của cộng đồng, gây những tổn thất kinh tế, tiềm ẩn nguy cơ mất an ninh, trật tự ngay tại các làng nghề. Theo một số nghiên cứu, tỷ lệ người mắc bệnh, nhất là nhóm người trong độ tuổi lao động tại làng nghề có xu hướng tăng.
Công tác bảo vệ môi trường có nơi, có lúc còn bất cập, hạn chế. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề còn thiếu, một số nội dung chưa được cụ thể hóa; quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ về bảo vệ môi trường làng nghề của các bộ, ngành và địa phương, cơ quan, lực lượng chưa rõ ràng và còn chồng chéo. Một số địa phương tuy đã có quy hoạch, nhưng các cụm, khu công nghiệp tập trung của làng nghề vẫn chưa có hệ thống quản lý môi trường chung mà đa phần là hoạt động riêng rẽ; nguồn nhân lực, tài chính, vật lực phục vụ công tác bảo vệ môi trường làng nghề còn thiếu; việc ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại nhằm bảo vệ môi trường chưa được quan tâm đầu tư, thực hiện đúng mức; một số chủ cơ sở sản xuất chưa quan tâm đến quyền lợi, trang bị các thiết bị bảo hộ lao động cần thiết nhằm bảo vệ sức khỏe cho người lao động.
3- Thực trạng nêu trên đặt ra yêu cầu cấp thiết, cần tiếp tục có những chủ trương, chính sách phát triển làng nghề, trong đó, đặc biệt chú trọng bảo đảm an ninh môi trường để các làng nghề phát triển theo hướng bền vững, gìn giữ được bản sắc văn hóa, góp phần phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, môi trường sống trong lành cho người dân.
Bảo đảm an ninh môi trường chính là bảo đảm môi trường sống an toàn của con người trước các mối nguy hiểm do tự thân môi trường sinh ra hoặc do những hạn chế trong quản lý nhà nước về môi trường, do sự xâm hại về an ninh môi trường của các cơ sở sản xuất, do các hành vi vi phạm pháp luật, các loại tội phạm về môi trường gây ra. Bảo đảm an ninh môi trường là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, các cấp, các ngành, trong đó lực lượng công an, cảnh sát môi trường giữ vai trò nòng cốt. Dưới góc độ công tác bảo đảm an ninh môi trường, để phát triển bền vững các làng nghề trong thời gian tới, cần tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của các chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh và người lao động tại các làng nghề về ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường. Đây là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu nhằm bảo vệ môi trường tại các làng nghề. Cấp ủy, chính quyền, các cơ quan có chức năng quản lý, bảo vệ môi trường tại địa phương; cơ quan truyền thông, báo chí cần vào cuộc quyết liệt, sử dụng có hiệu quả nhiều hình thức, biện pháp tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho các chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, người lao động tại các làng nghề về ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường. Tích cực tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương về công tác bảo vệ môi trường; tuyên truyền những kinh nghiệm hay, phương pháp và cách làm sáng tạo của các làng nghề tiêu biểu trong công tác bảo vệ môi trường. Thực hiện nhất quán quan điểm sản xuất, kinh doanh phải gắn với bảo vệ môi trường, tuyệt đối không hy sinh lợi ích môi trường để đạt một số lợi ích kinh tế trước mắt.
Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu, xây dựng, ban hành, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật có liên quan đến công tác bảo vệ môi trường tại các làng nghề theo hướng bảo đảm khoa học, toàn diện, tạo cơ sở pháp lý cho công tác bảo vệ môi trường. Quy định rõ trách nhiệm của chính quyền địa phương, các ban, ngành, lực lượng, các tập thể, cá nhân, chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh trong việc bảo vệ môi trường. Đề cao tính kỷ cương, nghiêm minh theo hướng mở rộng hình thức, nâng cao mức độ xử lý đối với cá nhân, tập thể, cơ sở sản xuất, kinh doanh và tại các làng nghề có những hành vi vi phạm gây ô nhiễm môi trường. Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung các tiêu chí “Làng nghề xanh” một cách khoa học, đồng bộ, chặt chẽ, phù hợp với tiêu chuẩn bảo vệ môi trường trong điều kiện mới, lấy đó làm căn cứ xếp loại làng nghề bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững một cách chính xác, khách quan. Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các quy định về vệ sinh, môi trường tại các làng nghề thông qua các nội quy, quy định, hương ước, viết cam kết bảo vệ môi trường... Nghiên cứu, ban hành quy định khuyến khích một số loại hình làng nghề phát triển nhanh, mạnh cả về số lượng, quy mô sản xuất nếu bảo đảm các tiêu chí an toàn, thân thiện với môi trường; xem xét hạn chế hoặc không khuyến khích phát triển một số làng nghề gây ô nhiễm môi trường. Một số hoạt động hoặc công nghệ cần được nghiêm cấm triệt để nếu gây tác động, ảnh hướng xấu đến môi trường, sức khỏe của con người.
Thứ ba, lực lượng công an cần làm tốt công tác tham mưu với các cấp chính quyền trong quy hoạch làng nghề gắn với bảo đảm an ninh môi trường. Các lực lượng có chức năng bảo đảm an ninh môi trường cần chủ động tham gia cùng chính quyền địa phương và các hộ sản xuất trong làng nghề xem xét, bàn bạc phương án quy hoạch đưa khu vực sản xuất làng nghề ra khỏi khu dân cư, nơi sinh hoạt của gia đình. Địa phương nên quy hoạch khu đất riêng tách khỏi khu dân cư phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của làng nghề. Tại đây, cần có kết cấu hạ tầng đường giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước, hệ thống thu gom và xử lý nước thải, chất thải rắn tiên tiến, hiện đại, đồng bộ để xử lý tập trung. Các hộ sản xuất, kinh doanh được quyền thuê, đấu thầu công khai hoặc mua đất để chuyển hướng sản xuất ra ngoài. Cùng với đó, cần tiếp tục thực hiện việc quy hoạch phân tán, sản xuất ngay tại hộ gia đình trên cơ sở thực hiện tốt các biện pháp bảo vệ môi trường để không phải di dời, hạn chế tối đa việc thay đổi kết cấu hạ tầng truyền thống. Chú trọng việc lưu giữ, bảo tồn khung cảnh sản xuất mang tính cổ truyền của làng nghề, là cơ sở để kết hợp với phát triển loại hình du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng.
Thứ tư, tăng cường nguồn lực tài chính, nguồn nhân lực, công nghệ tiên tiến, hiện đại phục vụ công tác phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hoạt động gây ô nhiễm môi trường tại các làng nghề. Các cấp có thẩm quyền cần có chương trình, kế hoạch quan tâm đầu tư các nguồn lực đúng mức để bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm môi trường tại các làng nghề; có chính sách phù hợp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại các làng nghề; tăng cường tổ chức các lớp huấn luyện, đào tạo, thử nghiệm, áp dụng phương thức sản xuất mới sạch hơn cho các chủ cơ sở sản xuất tại làng nghề. Thực hiện chính sách quan tâm hỗ trợ, khuyến khích các cơ sở sản xuất đầu tư kinh phí, công nghệ tiên tiến, hiện đại để xử lý nước thải, khí thải, chất thải bằng chính sách cho vay ưu đãi hoặc giảm thuế theo quy định. Đa dạng hóa các nguồn đầu tư và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng, xã hội hóa nguồn tài chính trong bảo vệ môi trường làng nghề.
Thứ năm, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp giữa các lực lượng có nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Các cơ quan, đơn vị của Bộ Công an, Bộ Tài nguyên và Môi trường, từ cấp bộ đến cơ sở cùng với cấp ủy, chính quyền địa phương, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao cần làm tốt công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác phối hợp, trao đổi thông tin, kinh nghiệm quản lý, xử lý các vụ việc liên quan đến an ninh môi trường. Chủ động nắm tình hình, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm, gây ô nhiễm môi trường. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để kịp thời chấn chỉnh, xử lý và yêu cầu các làng nghề triển khai áp dụng các biện pháp cần thiết để giảm thiểu ô nhiễm; nghiên cứu, xây dựng các quy trình, biện pháp triển khai xử lý ô nhiễm theo đúng quy định; qua đó góp phần thúc đẩy làng nghề phát triển bền vững./.
Quản lý, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên quốc gia, nhất là đất đai trên cơ sở đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy, xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia, cải cách hành chính để đáp ứng nhu cầu phát triển, hài hòa lợi ích của quốc gia, người dân và doanh nghiệp được Đại hội XIII của Đảng định hướng là một trong những yêu cầu phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.
Vài nét về hệ thống tổ chức bộ máy quản lý đất đai ở Việt Nam
Hệ thống địa chính đầu tiên của Việt Nam do triều Lê thiết lập vào năm 1490, chủ yếu tập trung cho mục tiêu quản lý ruộng đất để thu thuế nông nghiệp. Bộ luật Hồng Đức là bộ luật đầu tiên được ban hành ở Việt Nam, có 59 điều về quản lý ruộng đất. Hệ thống địa chính thứ hai được xác lập bởi Bộ luật Gia Long, có 14 điều quy định về các quan hệ dân sự và hành chính về đất đai(1). Theo một thống kê do Nguyễn Công Tiệp tiến hành vào thời Minh Mạng, số lượng ruộng đất tư trong cả nước là 2.816.221 mẫu, chiếm 82,92% tổng diện tích ruộng đất thực canh trong cả nước (3.396.584 mẫu), trong khi ruộng đất công chỉ chiếm 580.363 mẫu (khoảng 17,08% trên tổng diện tích ruộng đất thực canh)(2).
Nửa cuối thế kỷ XIX, người Pháp bắt đầu lập bản đồ địa chính với tọa độ và lập sổ địa chính mới để tăng cường thu thuế nông nghiệp ở các vùng nông thôn và kiểm soát thị trường bất động sản ở đô thị. Đây là hệ thống địa chính thứ ba được thiết lập ở Việt Nam với hệ thống đăng ký giấy chứng nhận quyền (Deed system) được áp dụng cho quản lý đất đai ở nông thôn và hệ thống đăng ký quyền (Torrens system) được áp dụng cho đất đô thị.
Sau khi giành được độc lập năm 1945, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 41, ngày 3-10-1945, tiếp nhận Sở Trước bạ - Văn tự - Quản thủ điền thổ và Thuế Trực thu của Phủ Toàn quyền Đông Dương về trực thuộc Bộ Tài chính. Nhà nước ban hành một loạt các văn bản quy định giảm thuế đất, quy định về sử dụng đất như Nghị định “Miễn giảm thuế điền”, “Kê khai và cho mượn đất giồng màu”, Sắc lệnh “Bãi bỏ thuế thổ trạch ở thôn quê”.
Cùng với sự phát triển đất nước, hệ thống chính sách, pháp luật liên quan tới công tác quản lý đất đai cũng dần được hoàn thiện. Trước khi Luật Đất đai ra đời năm 1987, từ năm 1945 cho tới khi thống nhất đất nước năm 1975, đất đai ở miền Bắc và sau đó là trong cả nước đều do Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch và kế hoạch chung nhằm bảo đảm ruộng đất được sử dụng hợp lý, tiết kiệm, khai thác hiệu quả nguồn lực đất đai để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế theo hướng đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Khởi đầu cho đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai ở Việt Nam là Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, năm 1981, hay còn gọi là “Khoán 100”, thực hiện việc khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động, là tiền đề của “Khoán 10”, thực hiện theo Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 5-4-1988, của Bộ Chính trị, “Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”. Đây là bước đột phá quan trọng, lần đầu tiên xác định hợp tác xã nông nghiệp là đơn vị chủ quản, hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ nhận khoán với hợp tác xã.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986), Luật Đất đai đã được Quốc hội thông qua lần đầu tiên ngày 29-12-1987. Luật Đất đai năm 1987 là văn bản luật đầu tiên điều chỉnh quan hệ đất đai, làm thay đổi quan hệ đất đai theo chế độ tập thể hóa và quốc doanh hóa trước đây, giao đất ổn định lâu dài cho các hộ nông dân, cho các nông trường, lâm trường và cá nhân, khuyến khích kinh tế tư nhân trong lĩnh vực khai thác sử dụng đất, đồng thời khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý(3). Năm 1994, Tổng cục Quản lý ruộng đất và Cục Đo đạc và Bản đồ nhà nước được hợp nhất và tổ chức lại thành Tổng cục Địa chính theo Nghị định số 12/CP, ngày 22-2-1994, và Nghị định số 34/CP, ngày 23-4-1994, của Chính phủ. Sau khi Tổng cục Địa chính ra đời, các địa phương đã thành lập Sở Địa chính trực thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh. Tại cấp huyện là Phòng Địa chính trực thuộc UBND cấp huyện, tại cấp xã có cán bộ địa chính xã.
Đến năm 2002, theo định hướng thành lập các bộ quản lý đa ngành, Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập theo Nghị quyết số 02/2002/QH11 của Quốc hội khóa XI và Nghị định số 91/2002/NĐ-CP, ngày 11-11-2002, của Chính phủ. Ở địa phương thành lập Sở Tài nguyên và Môi trường trên cơ sở hợp nhất Sở Địa chính, các đơn vị quản lý nhà nước về tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thuỷ văn, đo đạc và bản đồ.
Để tăng cường quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường, năm 2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25/2008/NĐ-CP, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Tổng cục Quản lý đất đai được thành lập trong Bộ Tài nguyên và Môi trường nhằm tập trung các hoạt động quản lý nhà nước về đất đai ở cấp Trung ương về một đầu mối chuyên trách.
Sau khi Luật Đất đai năm 1987 ra đời, qua quá trình hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai theo từng thời kỳ phù hợp với quá trình đổi mới và phát triển đất nước, Luật Đất đai năm 1993, năm 2003 và 2013 đã được ban hành, cùng với các lần sửa đổi, bổ sung vào năm 1998, năm 2001. Đến nay, hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai đã căn bản giải quyết được các vấn đề liên quan tới quản lý đất đai trong bối cảnh phát triển hiện tại của đất nước. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cũng đã có chuyển biến rõ rệt, bảo đảm tốt hơn quyền lợi cho người có đất thu hồi. Chính sách tài chính về đất đai, đổi mới về giá đất đã góp phần tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách, từng bước thực hiện quản lý nhà nước về đất đai bằng biện pháp kinh tế. Công tác cải cách thủ tục hành chính giúp giảm tối đa các thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai. Công tác thanh tra, kiểm tra về quản lý, sử dụng đất đai được quy định cụ thể. Thị trường bất động sản nói chung và thị trường quyền sử dụng đất nói riêng đã từng bước đi vào nề nếp và ổn định, các đơn vị tư vấn định giá đất được hình thành và hoạt động ngày càng chuyên nghiệp, hỗ trợ cho thị trường bất động sản.
Thực hiện quan điểm nhà nước thống nhất quản lý về đất đai
Quan điểm nhà nước thống nhất quản lý đất đai được thông qua tại Tuyên bố Hội nghị chuyên gia địa chính liên vùng Liên hợp quốc (Tuyên bố Bogor), ngày 22-3-1996, nêu rõ sự cần thiết phải thiết lập một chính sách đất đai quốc gia thống nhất, bao gồm: 1- Cơ sở hạ tầng dữ liệu không gian quốc gia thống nhất nhằm tích hợp và bảo mật dữ liệu tối đa, sử dụng tài nguyên hiệu quả và phát triển hệ thống thông tin đất đai toàn diện; 2- Cơ sở dữ liệu địa hình và địa chính đồng nhất và thống nhất bảo đảm tích hợp, chia sẻ và đồng bộ dữ liệu trong tương lai; cập nhật và nâng cấp tất cả các hệ thống quản lý địa chính đồng bộ, thống nhất.
Ở Việt Nam, để khắc phục những hạn chế, bất cập trong công tác quản lý đất đai, phát huy nguồn lực đất đai để phát triển, ngày 31-10-2012, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW, “Về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Thể chế hóa chủ trương của Đảng, Hiến pháp năm 2013 tại Điều 53 và Điều 54 đã quy định đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Mục II Chương 3 Luật Đất đai năm 2013 đã bổ sung quy định về hoạt động điều tra, đánh giá đất đai, bao gồm cả điều tra số lượng và điều tra chất lượng đất đai. Để từng bước xây dựng hệ thống quản lý đất đai hiện đại, tạo điều kiện để công khai, minh bạch hóa công tác quản lý, sử dụng đất, Luật Đất đai năm 2013 đã dành Chương IX quy định về hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai. Hệ thống thông tin đất đai được thiết kế tổng thể và xây dựng thành một hệ thống thống nhất trên phạm vi cả nước, phục vụ đa mục tiêu với thành phần cơ bản là hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin đất đai, hệ thống phần mềm hệ điều hành, phần mềm hệ thống và phần mềm ứng dụng, cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia. Cơ sở dữ liệu đất đai là tài sản của Nhà nước, được bảo đảm an ninh, an toàn chặt chẽ; tổ chức, cá nhân có quyền khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu đất đai theo quy định của pháp luật và phải nộp phí.
Luật Đất đai cũng đã bước đầu hình thành khung pháp lý để thực hiện các dịch vụ công điện tử trong lĩnh vực đất đai. Thực hiện Luật Đất đai năm 2013, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành quy định kỹ thuật, quy trình, định mức kinh tế - kỹ thuật xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai. Bộ đã xây dựng và trình Chính phủ dự thảo các nghị định quy định về xây dựng, quản lý và khai thác, sử dụng hệ thống thông tin đất đai; giao dịch điện tử trong lĩnh vực đất đai.
Về định hướng củng cố, hoàn thiện tổ chức, cơ chế hoạt động của Văn phòng đăng ký đất đai và Trung tâm phát triển quỹ đất, Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật đã quy định theo hướng kiện toàn các tổ chức này theo mô hình một cấp trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường với chức năng, nhiệm vụ phù hợp để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của việc cung cấp dịch vụ công.
Văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, các bộ, ngành về thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW, xác định các nhiệm vụ cải cách thủ tục hành chính, nghiên cứu và từng bước triển khai thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực đất đai; tiếp tục kiện toàn hệ thống bộ máy quản lý đất đai; tăng cường quản lý và phát triển thị trường bất động sản với ưu tiên hoàn thành việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tạo điều kiện để đất đai tham gia vào thị trường bất động sản. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai làm cơ sở cho việc ứng dụng công nghệ thông tin quản lý các nguồn lực phát triển đất nước. Quyết định số 1892/QĐ-TTg, ngày 14-12-2012, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Đề án nâng cao năng lực quản lý nhà nước ngành quản lý đất đai giai đoạn 2011 - 2020” đề ra nhiệm vụ cụ thể: “Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai thông qua việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai; đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận; xây dựng hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai; thực hiện cải cách hành chính trong lĩnh vực đất đai; kiện toàn hệ thống tổ chức ngành quản lý đất đai theo hướng quản lý thống nhất, đủ năng lực thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước và các dịch vụ công về đất đai; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành quản lý đất đai”.
Định hướng đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai
Để tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai, trong thời gian tới cần tập trung nỗ lực giải quyết các nội dung sau:
- Về phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của Nhà nước - đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai, cần làm rõ chế độ quản lý và sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đối với đất đai theo không gian sử dụng, bao gồm quyền bề mặt quy định tại Điều 267 Bộ luật Dân sự đối với mặt đất, mặt nước, thềm lục địa, khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất thuộc chủ quyền lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Rà soát thẩm quyền, phân cấp, phân quyền, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương tới địa phương trong công tác quy hoạch, kế hoạch, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyết định giá đất, chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất để điều chỉnh cho phù hợp với năng lực thực hiện của đối tượng được phân cấp, đáp ứng yêu cầu quản lý thống nhất của Nhà nước về đất đai và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh, quốc phòng của đất nước.
- Tăng cường đầu tư nguồn lực để đo đạc, lập bản đồ, hồ sơ địa chính, xây dựng cơ sở dữ liệu, cải cách thủ tục hành chính, đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Xây dựng hệ thống đăng ký giao dịch bất động sản, đăng ký tài sản thế chấp, đăng ký giá giao dịch, đăng ký quyền sử dụng hạn chế như khu vực bãi bồi, khu vực đất ngập nước theo mùa thuộc công trình thủy lợi, thủy điện; hạ tầng công trình ngầm, cáp điện, khu vực hành lang an toàn đi qua đất giao tổ chức, cá nhân; công trình ngầm hoặc trên không của tổ chức, cá nhân trong phạm vi đất công cộng.
- Áp dụng quy hoạch sử dụng đất tích hợp theo phương pháp tiếp cận cảnh quan để bảo đảm quy hoạch sử dụng đất phải tổng hợp, cân đối, phân bổ hợp lý, sử dụng hiệu quả đất đai cho các ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ và đơn vị hành chính, phân bổ và khoanh vùng đất đai theo không gian sử dụng được thể hiện thông tin theo tọa độ, không gian và thời gian bằng bản đồ chuyên đề tách lớp cho tất cả các loại quy hoạch theo quy định của Luật Quy hoạch, bao gồm quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia, quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn trên cả nước.
- Việc giao đất, cho thuê đất, sắp xếp lại trụ sở, cơ sở làm việc thuộc sở hữu nhà nước, đất nông, lâm trường cần được thực hiện chủ yếu thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất. Mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tích tụ, tập trung đất đai, từng bước hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn trong nông nghiệp. Sớm có giải pháp đáp ứng nhu cầu đất sản xuất cho bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số đang không có đất sản xuất. Cần có chính sách thuế, phí, xử phạt vi phạm hành chính đối với những trường hợp sử dụng đất lãng phí, không đúng mục đích, đầu cơ đất, bỏ hoang, chậm đưa đất vào sử dụng.
- Đổi mới cơ chế điều tiết giá trị tăng thêm từ đất bằng cách lập bản đồ giá đất trước khi lập quy hoạch, sau khi lập quy hoạch, sau khi xây dựng công trình kết cấu hạ tầng giao thông, kinh tế, xã hội, chỉnh trang đô thị, thực hiện thu hồi đất vùng phụ cận, điều chỉnh đất đai, dồn điền, đổi thửa tại đô thị để tăng thu ngân sách nhà nước, đồng thời ưu tiên cho người bị thu hồi đất ở được giao đất hoặc mua nhà trên diện tích đất đã thu hồi. Hoàn thiện cơ chế tạo quỹ đất, huy động các nguồn vốn xây dựng các khu dân cư có hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ để bố trí chỗ ở mới cho người có đất bị thu hồi trước khi bồi thường, giải tỏa; phương thức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ bảo đảm ổn định đời sống lâu dài cho người có đất bị thu hồi. Cá nhân đang sử dụng được chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất với nhà đầu tư để thực hiện dự án.
- Ứng dụng công nghệ vào xác định giá đất, tới từng thửa đất, thực hiện đăng ký giá đất, xây dựng cơ sở dữ liệu về giá đất, khung giá đất, bảng giá đất, giá đất đấu giá, giá đất đấu thầu, giá đất bồi thường, giá đất tái định cư, giá đất cụ thể, giá đất giao dịch thực tế và giá đất đăng ký, làm cơ sở cho công tác quản lý nhà nước về giá đất, từng bước đổi mới phương pháp xây dựng bảng giá đất và hệ số điều chỉnh theo tín hiệu thị trường.
Giải pháp đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy quản lý đất đai ở Việt Nam
Đất đai là một nguồn tài nguyên quan trọng và có giới hạn. Việc quản lý và khai thác hiệu quả tài nguyên đất đai sẽ đem tới những lợi thế cạnh tranh và tạo ra một xã hội ổn định và thịnh vượng. Khoảng 80% quyết định về các lĩnh vực kinh tế, chính trị hay xã hội của các cơ quan quản lý nhà nước đều cần tới những thông tin có yếu tố vị trí địa lý hay thông tin về không gian. Khi công nghệ thông tin chưa phát triển, việc cung cấp đầy đủ, kịp thời và chính xác những thông tin này phục vụ quá trình ra quyết định là một thách thức lớn đối với các cơ quan quản lý về đất đai. Nguyên nhân chính gây ra hạn chế về năng lực thực thi ở các cơ quan quản lý đất đai là do các cơ quan này chưa có đủ năng lực và các công cụ cần thiết để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao, đặc biệt là năng lực và các công cụ để vận hành hệ thống quản lý đất đai dựa trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại. Hạ tầng thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia là yếu tố cốt lõi để hỗ trợ vận hành công tác chuyên môn, cải cách thủ tục hành chính cũng như phục vụ cho việc phối hợp, kết hợp với các bên có liên quan.
Mô hình tổ chức bộ máy quản lý đất đai ở Việt Nam trong thời gian tới cần được tổ chức thống nhất từ Trung ương tới địa phương, dựa trên ứng dụng chuyển đổi số vào xây dựng hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai thống nhất theo ba nội dung chính của công tác quản lý nhà nước về đất đai là quản lý cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quản lý giá đất và quản lý quy hoạch sử dụng đất. Ứng dụng công nghệ GPS, cơ sở dữ liệu lớn bản đồ chuyên đề nhiều lớp, công nghệ trí tuệ nhân tạo, đám mây, chuỗi khối để: 1- Thiết lập hệ thống đăng ký và số hóa đất đai; 2- Kiểm kê đất đai, lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất; 3- Lập, thẩm định, phê duyệt, thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất; 4- Xây dựng bản đồ tích hợp quy hoạch sử dụng đất với hệ thống quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm an ninh, quốc phòng; 5- Sử dụng các công cụ kinh tế, tài chính đất đai để khai thác hiệu quả nguồn lực đất đai.
Hệ thống thông tin đất đai, nhất là cơ sở dữ liệu đất đai, là công cụ giúp Chính phủ kiểm soát tài nguyên đất, cung cấp dịch vụ công cho người dân, mở rộng khả năng tiếp cận đất đai cho người dân và doanh nghiệp, góp phần giảm đói nghèo, giúp tăng GDP theo đầu người và GDP cho cả nước. Hệ thống thông tin đất đai giúp hoàn thiện được cơ chế công khai, chia sẻ thông tin về tình trạng pháp lý của thửa đất, tình trạng giao dịch, giá, quy hoạch, hiện trạng sử dụng đất và bất động sản trên đất, đem lại các hiệu quả kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, tăng nguồn thu ngân sách quốc gia, giảm chi phí, cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi và thúc đẩy thực hiện các giao dịch về đất đai, cải thiện lòng tin của người dân đối với chính quyền, sự tín nhiệm, quyết định đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, bảo đảm công bằng xã hội cho mọi người dân, đặc biệt là các nhóm dễ bị tổn thương, như phụ nữ, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, người nghèo.
Hệ thống cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia được quản lý tập trung, thống nhất, bảo đảm đồng bộ, chính xác, tin cậy, bảo mật thông tin để có thể chia sẻ sử dụng cho nhiều đối tượng khác nhau, bao gồm các cơ quan Chính phủ, các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân và người nước ngoài để cùng khai thác và sử dụng. Hệ thống thông tin đất đai của các nước phát triển, như Thụy Điển, Niu Di-lân, Ô-xtrây-lia, Nhật Bản, Hàn Quốc,... được chia sẻ và sử dụng cho hoạt động quản lý điều hành đất nước và hoạt động của doanh nghiệp trong nhiều ngành, lĩnh vực.
Việc kiện toàn cơ quan định giá đất của Nhà nước theo định hướng của Nghị quyết số 19-NQ/TW cần phải được xây dựng trên cơ sở Cơ quan thẩm định giá đất quốc gia và mạng lưới cơ quan định giá đất trực thuộc các văn phòng đăng ký đất đai ở các địa phương, đảm nhiệm vai trò xây dựng quy trình, tiêu chuẩn kỹ thuật và thủ tục tuân thủ. Hệ thống cơ sở dữ liệu giá đất cùng với hệ thống cơ sở dữ liệu địa chính và hệ thống cơ sở dữ liệu quy hoạch sử dụng đất là tiền đề để Chính phủ có thể sử dụng các công cụ kinh tế, tài chính nhằm khai thác nguồn lực đất đai, khắc phục các hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết. Việc định giá đất, xây dựng bản đồ giá đất gắn với hệ thống cơ sở dữ liệu địa chính, quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất là tiền đề để ứng dụng công nghệ định giá đất hàng loạt vào xây dựng bản đồ giá đất tới từng thửa đất theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 32 Luật Đất đai. Trên cơ sở dữ liệu giá đất, địa chính và quy hoạch sử dụng đất có thể xác định vùng giá trị bao gồm các thửa đất có đặc tính tương đồng. Trong mỗi vùng giá trị đất có một thửa đất chuẩn được định giá. Sau đó, mỗi thửa đất trong vùng giá trị đất được định giá với hệ số điều chỉnh được áp dụng để phản ánh sự khác biệt giữa thửa đất chuẩn và các thửa đất khác trong vùng đó. Thửa đất chuẩn được dùng làm chỉ số điều chỉnh hằng năm trong mỗi chu kỳ điều chỉnh 5 năm. Các tỉnh được cung cấp chỉ số điều chỉnh giá đất dựa trên thị trường. Chỉ số điều chỉnh được sử dụng để điều chỉnh mức giá trị đất của tất cả các thửa đất trong một địa phương trong chu kỳ thẩm định giá. Chỉ số điều chỉnh có thể được xác định theo quy định do Cơ quan thẩm định giá quốc gia. Chỉ số điều chỉnh được tính toán và dựa trên giao dịch đất đai, dữ liệu cho thuê hiện tại và các minh chứng thị trường liên quan khác như giá đấu giá để xác định mức giá của từng mục đích sử dụng đất tại một địa điểm nhất định.
Mô hình tổ chức bộ máy quản lý đất đai, công tác quy hoạch, giá đất, gắn với hệ thống cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia được quản lý đồng bộ, thống nhất, bảo mật cao, cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, theo thời gian thực từ Trung ương tới địa phương là tiền đề để đổi mới hệ thống quản lý đất đai, từng bước thực hiện hạch toán tài nguyên đất, ứng dụng chuyển đổi số trong công tác quản lý nhà nước về đất đai./.
PGS, TS. NGUYỄN ĐÌNH THỌ - NGUYỄN THỊ THANH PHƯƠNG
Viện trưởng Viện Chiến lược chính sách tài nguyên và môi trường,
Trường Đại học Ngoại thương
----------------------
(1) Xem: Đặng Hùng Võ và Gsta Palmkvist: “Cải cách hệ thống quản lý đất đai”, Hội thảo quốc tế “Công nghệ cho thế kỷ mới”, Liên đoàn Trắc địa quốc tế, 2001 (2) Xem: Huỳnh Công Bá: “Chế định về tài sản ruộng đất trong pháp luật triều Nguyễn”, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, số 51, 2009 (3) Xem: Nguyễn Tấn Phát: “Chính sách đất đai ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 1 (332) năm 2006
Những chứng cứ
mà người ta đưa ra là những đối tượng bị cơ quan chức năng Việt Nam bắt giữ, xét
xử trong một số vụ án như: Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển và Trần Hoàng Phú
(Hà Nội, tháng 1-2018), trước đó là Trần Thị Nga (Hà Nam, ngày 25-7-2017); Nguyễn
Ngọc Như Quỳnh (Khánh Hòa, ngày 30-11-2017); gần đây là đối tượng Will
Nguyễn (công dân Mỹ gốc Việt) bị bắt trong vụ biểu tình gây rối ở TP Hồ Chí
Minh, ngày 10-6-2018. Lập luận của họ cho rằng: Việc làm của những đối tượng
trên là hành động “ôn hòa”, “bất bạo động”. Những người nêu trên chỉ thực hiện
các “quyền con người vốn có của họ”, hơn nữa, những quyền này nằm trong Hiến
pháp 2013 và trong các công ước về QCN mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập… Những
thông tin xuyên tạc bôi nhọ Việt Nam về QCN nói trên được tán phát trên nhiều
hãng thông tấn, báo chí phương Tây như BBC, VOA, RFI… và các website, dịch vụ mạng Yahoo, YouTube,
nhiều trang mạng xã hội, trong đó có cả một số tài khoản trên mạng Facebook, Zalo.
Vậy QCN là gì?
Hiến pháp 2013 quy định về QCN như thế nào? Vì sao các thế lực thù địch lại thường
viện dẫn QCN khi nói đến những vụ việc chính trị, xã hội ở Việt Nam gần đây?
1. Quyền con người là gì?
QCN là thành
quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là tài sản chung của các dân tộc.
Ngày nay, QCN được xem như là một thước đo của sự tiến bộ và trình độ văn minh
của các xã hội, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc
văn hóa. Về phương diện lịch sử, chế định QCN ra đời từ các cuộc cách mạng dân
chủ tư sản, xóa bỏ chế độ phong kiến. Ngày nay, khi nói về lịch sử chế định
QCN, người ta thường nhắc tới “Luật về các quyền của Anh” năm 1689, “Tuyên ngôn
độc lập” năm 1776 và Hiến pháp bổ sung năm 1787 của Mỹ, “Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền; năm 1789 của Pháp. Sau khi Liên hợp quốc thành lập (1945), đó là văn
kiện toàn cầu-bản “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người” được cộng đồng quốc
tế thông qua ngày 10-12-1948. Ở Việt Nam, QCN, quyền công dân là thành quả của
cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và khi ra đời Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa, nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo quan niệm
chung của cộng đồng quốc tế, QCN với tư cách là luật tự nhiên, là một giá trị đạo
đức, đó là một giá trị xã hội cơ bản, vốn có của con người. Những giá trị này
bao gồm: Sự tôn trọng nhân phẩm, tự do, bình đẳng, tinh thần nhân đạo, khoan
dung và trách nhiệm của mỗi người với cộng đồng, nhà nước. Với tư cách là luật
thực chứng, QCN là những quy định của hiến pháp và pháp luật ở mỗi quốc gia nhằm
bảo vệ nhân phẩm, các nhu cầu về vật chất, tinh thần của tất cả mọi người và
nghĩa vụ của mỗi người đối với xã hội và nhà nước.
Nhằm ngăn chặn
sự lợi dụng tính phổ quát của QCN can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia,
Hội nghị Nhân quyền thế giới năm 1993 ở Viên (Áo) đã thống nhất quan điểm QCN
như sau:
QCN vừa có
tính phổ biến (phổ quát) hoặc còn gọi là tính toàn cầu, đồng thời, QCN vừa có
tính đặc thù, tức là những đặc trưng do truyền thống lịch sử, phong tục tập
quán và văn hóa ở các khu vực hoặc ở mỗi quốc gia quy định.
Cũng như mối
quan hệ giữa cái chung và cái riêng, tính phổ biến của QCN chỉ được thể hiện
thông qua tính đặc thù, tính đơn nhất trong hệ thống pháp luật quốc gia. Điều
này thể hiện tập trung trong các quy định về “hạn chế quyền” trong những bộ luật
nhất định. Những hạn chế này nhằm “bảo vệ an ninh quốc gia; trật tự công cộng;
sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc các quyền và tự do của người khác”(1).
2. Hiến pháp 2013 quy định quyền con người
như thế nào?
Các bản Hiến
pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đều có các quy định về quyền công dân, trong đó có không ít quy định mang nội
dung QCN. Hiến pháp 2013 lần đầu tiên đã dành cả một chương-chương hai, quy định
về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân”. Trong chương này, các QCN,
quyền và nghĩa vụ công dân được quy định một cách đầy đủ và tương thích với các
công ước quốc tế cơ bản về QCN. Đồng thời Hiến pháp 2013 đã quy định 3 nguyên tắc
về QCN: 1. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm QCN của người dân; 2. QCN có thể bị những
hạn chế nhất định; 3. Khi xem xét một vụ việc vi phạm pháp luật phải theo
nguyên tắc “suy luận vô tội”. Hiến pháp được hiểu là “khế ước xã hội”, là “hợp
đồng” giữa người dân với nhà nước, trong đó người dân trao quyền cho nhà nước,
để đổi lại nhà nước cam kết tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền của mỗi người
dân, và quyền, lợi ích chung của cả xã hội.
Khi QCN trở
thành một thủ đoạn chính trị mà các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá chế
độ xã hội thì việc các cơ quan chức năng sử dụng các biện pháp chuyên chính để
can thiệp, bảo vệ an ninh quốc gia, lập lại trật tự công cộng là điều tất
nhiên. Trong thời đại internet, kỹ thuật số, đã xuất hiện “thực tế ảo”, “thế giới
ảo”. Trong "thế giới ảo" cũng đã có những tội phạm thực. Đó
là những kẻ sử dụng internet, mạng xã hội đưa tin thất thiệt, từ xúc phạm nhân
phẩm cá nhân, lừa đảo, cờ bạc… đến xúi giục người dân xuống đường biểu tình chống
chế độ xã hội, nhà nước. Vì vậy, khái niệm “tội phạm mạng” đã xuất hiện
trong hệ thống pháp luật thời đại internet, kỹ thuật số. Điều 8, Luật
An ninh mạng quy định về những hành vi nghiêm cấm sau: (a) Hành vi quy định tại
Khoản 1,Điều 18 (2) của luật này; (b) Tổ chức, hoạt động, cấu kết,
xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo… người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; (c) Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành
tựu cách mạng,
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc,…; (d) Thông tin sai sự thật gây hoang mang
trong nhân dân,…; (đ) “… đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại
thuần phong mỹ tục…; (e) Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội”...
Những ai, những tài khoản nào đăng tải một trong những thông tin trên là “tội
phạm mạng”.
3. Vì sao các thế lực thù địch lại thường
viện dẫn quyền con người khi nói đến những vụ việc về chính trị, xã hội ở Việt
Nam?
Ngày nay, các
thế lực thù địch và tay sai của chúng đang tích cực thực hiện chiến lược;diễn
biến hòa bình" nhằm chuyển hóa xã hội hiện hữu sang con đường tư bản
chủ nghĩa. Thế nên họ thường lợi dụng QCN-một giá trị được cộng đồng quốc tế thừa
nhận, Việt Nam tôn trọng và ghi nhận… với suy nghĩ rằng điều này sẽ
được người dân hoan nghênh và cộng đồng quốc tế ủng hộ họ. Mặt khác, họ xuyên tạc
khái niệm QCN nhằm khuyến khích và trấn an người dân khi lợi dụng internet, mạng
xã hội một cách thiếu thận trọng, nhất là với tuổi trẻ. Họ tuyên truyền
rằng QCN là quyền không có bất cứ hạn chế nào; mọi hành vi chống chế độ một
cách “ôn hòa”, “bất bạo động” là hợp pháp; cơ quan chức năng trấn áp tội phạm
là “vi phạm QCN”… Với giọng điệu của các thế lực thù địch như trên dẫn đến một
số người dân ngộ nhận về QCN, vi phạm pháp luật, rơi vào vòng lao lý.
Như thông tin
đại chúng đã đưa, các cơ quan chức năng ở các tỉnh, thành phố: Bình Thuận, Đồng
Nai, TP Hồ Chí Minh… đã truy tố, xét xử một số người tham gia biểu tình gây rối
trật tự công cộng ngày 10-6-2018. Khi đối diện với pháp luật và các cơ quan chức
năng… họ đều khai rằng: Chỉ làm theo, nghe theo lời kêu gọi biểu tình phản đối
dự án Luật Đặc khu, Luật An ninh mạng… của một số kẻ khác vì nghĩ rằng đi biểu
tình là “yêu nước”, là “bảo vệ QCN”… Đáng tiếc, họ quên rằng: Tất cả các quyền
đều đi kèm với nghĩa vụ, trước hết là nghĩa vụ tôn trọng pháp luật.
Việc Tòa án
nhân dân TP Hồ Chí Minh vừa đưa ra xét xử Will Nguyễn (20-7-2018) là một bằng chứng
thể hiện rõ quan điểm của Việt Nam về QCN. Còn nhớ trước phiên tòa, trên
internet, mạng xã hội đã có nhiều thông tin dự báo về mức án dành cho Will Nguyễn,
có kẻ nói: “Hà Nội phải trả tự do không có điều kiện cho Will Nguyễn (vì Hoa Kỳ
đang gây sức ép)”; có người cho rằng mức án tối thiểu của Will Nguyễn nằm trong
khung hình phạt từ 2 đến 7 năm tù giam… Nhưng rút cuộc, tòa đã tuyên phạt Will
Nguyễn trục xuất (có hiệu lực ngay khi tòa tuyên án). Như vậy là tất cả những dự
đoán đều sai, Will Nguyễn không được “trả tự do vô điều kiện”, hoặc bị tù “từ 2
đến 7 năm” mà đã nhận được một bản án thấp nhất trong khung hình phạt về hành
vi gây rối trật tự công cộng. Quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ ngày nay đã có những thay
đổi lớn. Hai nhà nước đã trở thành đối tác toàn diện (bao gồm cả an ninh, quốc
phòng) trên cơ sở nguyên tắc hai bên tôn trọng thể chế, pháp luật của nhau. Bởi
vậy có thể nói, bản án dành cho Will Nguyễn không chịu bất cứ một sức ép nào. Đồng
thời bản án đã thể hiện rõ quan điểm QCN và tinh thần nhân đạo, khoan dung của
Nhà nước Việt Nam. Cũng phải nói thêm rằng, Will Nguyễn được nhận bản án đó còn
vì trước tòa, Will Nguyễn đã thật thà thừa nhận tội lỗi của mình và còn bày tỏ
vẫn muốn được trở về Việt Nam, đóng góp sức lực cho việc xây dựng đất nước./.
Cuối tháng 11/2021 vừa
qua, tổ chức “Mạng lưới nhân quyền Việt Nam (MLNQVN) đã ra thông cáo báo chí về
“Giải thưởng nhân quyền Việt Nam 2021”. Đáng chú ý, giải thưởng được trao cho 5
cá nhân thì trong đó có 3 người cùng một gia đình là Cấn Thị Thêu cùng 2 con
trai Trịnh Bá Phương và Trịnh Bá Tư. Hai người còn lại là Nguyễn Văn Túc và
Đinh Thị Thu Thủy.
Được “vinh danh” nhờ…
“bề dày” chống phá
Đúng với “nếp” cũ,
những cá nhân được tổ chức này “tôn vinh” là đối tượng đã, đang bị điều tra,
truy tố, xét xử về hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, riêng 3 mẹ con Cấn Thị
Thêu, Trịnh Bá Phương, Trịnh Bá Tư đã có các bản án tại phiên tòa sơ thẩm. Từ
đó cho thấy sự lố bịch, trò hề của cái gọi là “Giải thưởng nhân quyền Việt
Nam”.
“Giải thưởng nhân
quyền Việt Nam” là một vở kịch thường niên mà MLNQVN dựng lên không phải vì quyền
con người, vì giá trị đích thực của cuộc sống người dân mà ngược lại, đây chỉ
là cái cớ để số đối tượng chống phá chế độ, chống Đảng, Nhà nước khuếch trương,
thu hút nguồn tài trợ từ các thế lực chống phá.
Trong cuộc họp báo
công bố kết quả “Giải nhân quyền Việt Nam 2021” được tiến hành qua Zoom, phát
trực tiếp trên facebook, youtube và một số loại hình mạng xã hội khác, tổ chức
này đã công bố 5 cá nhân được trao giải thưởng nói trên. Theo kế hoạch mà
MLNQVN đưa ra, hướng đến Ngày Quốc tế nhân quyền lần thứ 73 vào 12/12/2021, tổ
chức này sẽ làm lễ trao giải tại nhà sinh hoạt cộng đồng ở Westminster,
California, Mỹ.
Khi “vinh danh” để trao
cho Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Phương, Trịnh Bá Tư, họ gọi số đối tượng này là “các
nhà hoạt động nhân quyền”, vu cáo “nạn nhân của chính sách cướp đất của nhà cầm
quyền cộng sản Việt Nam, gia đình bà Cấn Thị Thêu đã trở thành những nhà hoạt động
đấu tranh cho quyền con người”!
Trên thực tế, số đối
tượng này chưa từng hoạt động vì lợi ích quyền con người, vì lợi ích cộng đồng
mà tất cả chỉ là lợi ích cá nhân, vượt quá giới hạn của pháp luật cho phép. Những
thông tin về các đối tượng này chống phá chính quyền đã được nêu rõ trong hồ sơ
của cơ quan tiến hành tố tụng.
Cấn Thị Thêu từ những
năm 2000 đã nổi lên với các hoạt động của “dân oan”, tích cực trong các hoạt động
gây mất trật tự liên quan đến khiếu kiện và đền bù đất đai và hành trình đó kéo
dài, bất chấp việc cơ quan chức năng vào cuộc giải quyết thấu đáo, trọn vẹn. Vì
bổng lộc mà các đối tượng phản động, chống phá bên ngoài nuôi dưỡng, Cấn Thị
Thêu nhắm mắt làm liều.
Cấn Thị Thêu, Trịnh
Bá Phương, Trịnh Bá Tư thường xuyên tán phát lên mạng xã hội các video có nội
dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền và bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân,
kêu gọi, kích động chống chính quyền; đưa thông tin xuyên tạc về vụ việc xảy ra
tại Đồng Tâm (Mỹ Đức, Hà Nội); vu khống, xúc phạm uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà
nước.
Cấn Thị Thêu đã có 2
tiền án, 1 tiền sự về các hành vi chống người thi hành công vụ, gây rối trật tự
công cộng. Ngày 5/5/2021, Cấn Thị Thêu và Trịnh Bá Tư đã bị TAND tỉnh Hòa Bình
tuyên phạt mỗi bị cáo 8 năm tù và 3 năm quản chế về tội “Làm, tàng trữ, phát
tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam” được quy định tại điểm a,b, khoản 1, Điều 117 - BLHS 2015.
Còn Trịnh Bá Phương cũng sắp hầu tòa với tội danh quy định tại khoản 2, Điều
117 - BLHS năm 2015.
Về mục đích đề ra,
Giải thưởng nhân quyền được trao tặng nhằm để “vinh danh, tuyên dương cá nhân,
tập thể có thành tích xuất sắc trong lĩnh vực đấu tranh cho quyền làm người của
người dân Việt Nam”.
Tuy nhiên, vinh
danh, tuyên dương những người có “thành tích xuất sắc” mà MLNQVN hướng đến
chính lànhững phần tử chống phá, gây ảnh
hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Cấn Thị Thêu không
chỉ dừng lại ở bề dày chống phá có thâm niên mà còn có “thành tích” lôi kéo con
cái vào các hoạt động vi phạm pháp luật. Điều đó càng khẳng định được rằng, những
phần tử này không chỉ sai về mặt pháp luật mà về đạo đức cũng không cho phép
khi bổn phận làm cha, làm mẹ lại lôi kéo con cái vào con đường sai trái của
mình.
Đối tượng Đinh Thị Thu Thủy (Đinh Thị Huỳnh Thơ)
Tương tự, các đối tượng
Đinh Thị Thu Thủy và Nguyễn Văn Túc đều là những đối tượng có bề dày hoạt động
với hành vi vi phạm pháp luật hình sự, tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước,
hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.
Đối tượng Nguyễn Văn Túc
Vở kịch thường niên
“Giải thưởng nhân
quyền Việt Nam” là sản phẩm của MLNQVN, một tổ chức đã được dư luận phơi bày về
mưu đồ, bản chất. Đây là tổ chức phi chính phủ có trụ sở tại Mỹ được thành lập
năm 1997, chuyên lợi dụng các chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” để can thiệp vào
công việc nội bộ của Việt Nam, tích cực móc nối với các tổ chức phi chính phủ
khác có hoạt động chống phá Việt Nam.
Tổ chức này thường
có các hoạt động như mở chiến dịch truyền thông đòi xóa bỏ Điều 4, Hiến pháp Việt
Nam, đòi Đảng Cộng sản từ bỏ quyền lãnh đạo; kêu gọi đa nguyên, đa đảng, cổ xúy
tam quyền phân lập; xuyên tạc, phỉ báng đường lối, chiến lược phát triển của Đảng
Cộng sản Việt Nam; đưa ra các bản báo cáo nhân quyền có nội dung xuyên tạc...
Với hàng loạt hành
vi vi phạm nhân quyền, can thiệp vào công việc nội bộ, tổ chức này không đủ tư cách
để hoạt động hay phát ngôn về nhân quyền. Việc tổ chức “Giải thưởng nhân quyền
Việt Nam” là hoạt động vi phạm pháp luật quốc tế khi can thiệp vào công việc nội
bộ của Việt Nam.
Tính đến 2021,
MLNQVN đã tổ chức 15 đại hội định kỳ quy tụ thành viên, đối tượng chống phá từ
nhiều quốc gia trên thế giới để đánh giá hoạt động, xây đường hướng đẩy mạnh hoạt
động chống phá đối với Việt Nam. Tính từ năm 2002 đến nay, MLNQVN đã trao “giải
thưởng nhân quyền” cho 53 cá nhân và 4 tổ chức.
Ðiểm qua danh sách
trao thưởng là những cái tên chống phá đất nước như: Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Vũ
Bình, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Hải, Trần Khải Thanh Thủy, Nguyễn Công
Chính, Cù Huy Hà Vũ, Tạ Phong Tần, Huỳnh Thục Vy, Võ An Ðôn, Trần Huỳnh Duy Thức,
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Hữu Vinh, Ðặng Minh Mẫn, Phạm Ðoan Trang, Lê Công
Ðịnh...
Thành lập tổ chức và
trao tặng cái gọi là “Giải thưởng nhân quyền Việt Nam” hằng năm, thủ đoạn, mục
đích của tổ chức này là thúc đẩy, dung dưỡng cho các đối tượng chống phá Đảng,
Nhà nước Việt Nam. Tuyên truyền xuyên tạc, nhất là đối với giới trẻ để lôi kéo
với những khẩu hiệu “phản kháng bất bạo động”, “dấn thân, hy sinh” vì nhân quyền…
để phát triển tổ chức, thành viên.
Hai là, khuếch
trương, kêu gọi tài chính cho chúng hoạt động, trợ giúp về tài chính, tinh thần
cho các đối tượng hoạt động chống phá gặp khó khăn. Ba là, với danh nghĩa tổ chức,
tìm cách móc nối để thực hiện ý đồ với các tổ chức nhân quyền ở nhiều quốc gia
cũng như các tổ chức nhân quyền quốc tế như Ân xá Quốc tế (AI), Quan sát Nhân
quyền (HRW), Phóng viên Không biên giới (RSF)…
Gặp gỡ với các giới
chức lập pháp và hành pháp của một số quốc gia, chính khách, tham dự hội nghị
quốc tế về nhân quyền… để xuyên tạc, tố cáo, kêu gọi, kiến nghị vấn đề nhân quyền,
gây áp lực, chống phá Việt Nam.
Và cuối cùng là lợi
dụng vấn đề nhân quyền, khuyến khích, ủng hộ, dung dưỡng cho cái gọi là “đấu
tranh dân chủ, nhân quyền Việt Nam”, thúc đẩy “giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền”
kiểu phương Tây, gieo mầm mống chống phá, lật đổ thể chế chính trị ở Việt Nam.
Trên thực tế, Đảng
và Nhà nước Việt Nam đã và đang nỗ lực để bảo vệ quyền con người và nâng cao đời
sống của người dân. Những nỗ lực đó không chỉ được người dân trong nước mà còn
được các tổ chức quốc tế có uy tín thừa nhận. Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch
COVID-19 càng cho thấy những nỗ lực của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong bảo vệ
quyền lợi của người dân.
Với quan điểm “không
để ai bị bỏ lại phía sau”, Chính phủ đã thực hiện các gói hỗ trợ cho người dân
bị ảnh hưởng bởi đại dịch, nhất là người lao động bị mất việc, các đối tượng
chính sách, bà con ở vùng sâu, vùng xa. Cùng với đó là các gói hỗ trợ doanh
nghiệp về miễn, giảm thuế; việc tăng cường lực lượng Y tế, Công an, Quân đội
vào vùng dịch bệnh diễn biến phức tạp để giúp dân, hỗ trợ chăm lo đời sống,
phòng, chống dịch bệnh và đảm bảo an ninh, trật tự.
Rõ ràng, Đảng và Nhà
nước ta luôn nỗ lực bảo vệ quyền lợi của người dân và mỗi người dân cũng cần thể
hiện trách nhiệm và lòng yêu nước của mình. Đồng thời, đối với những hành vi vi
phạm pháp luật, xâm hại đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, xâm hại sự vững mạnh của chế độ thì phải bị xử lý theo quy định của
pháp luật.
Tự do ngôn luận, tự do báo chí phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật
Không có sự “tự do”,
“dân chủ” nào lại vượt qua khuôn khổ của pháp luật, giá trị đạo đức. Một lần nữa,
sự thật lại phơi bày bản chất, âm mưu của “Giải thưởng nhân quyền Việt Nam
2021” mà MLNQVN đưa ra là sai trái, lừa mị để nhằm thúc đẩy, lôi kéo càng nhiều
người vào con đường chống phá đất nước.
Đây là một sự cổ
xúy, khen thưởng cho “thành tích” của các đối tượng chống đối ở trong nước, đồng
thời không ngừng xuyên tạc về tình hình nhân quyền ở Việt Nam, tìm kiếm sự móc
nối với các tổ chức nước ngoài, gây sức ép với Đảng, Nhà nước Việt Nam và tạo cớ
để nước ngoài can thiệp vào tình hình nội bộ Việt Nam.